Theo tổ chức y tế thế giới, cứ 2 giây có một người chết về bệnh tim mạch, cứ 5 giây có một trường hợp nhồi máu cơ tim và 6 giây có một trường hợp đột quỵ (tai biến mạch máu não).
Tại Hoa Kỳ người ta thống kê rắng, bệnh mạch vành là nguyên nhân gây ra tử vong lớn nhất hàng năm tại nước này.Mỗi năm có hơn 90 nghìn người Mỹ ra đi vì bệnh này.
Tại Pháp hiện có hơn 3 triệu người bị bệnh mạch vành và mỗi năm có hơn 50 nghìn cái chết do bệnh này gây ra
Bệnh mạch vành cũng là dạng bệnh phổ biến bậc nhất của bệnh tim ở Châu Âu. Tại Châu Âu hàng triệu người bị bệnh động mạch vành và hiện bệnh mạch vành đang là nguyên nhân tử vong hàng đầu trên toàn thế giới, gây ra hơn 17,5 triệu cái chết mỗi năm chiếm 30% số ca tử vong hàng năm. Căn bệnh này sẽ làm ảnh hưởng tới sức khỏe, chất lượng cuộc sống và tuổi thọ của con người
Tại Việt Nam, theo thống kê của Hội Tim Mạch Học Việt Nam(6/2010) thì cứ 3 người Việt Nam trưởng thành, 1 người có nguy cơ mắc bệnh tim mạch - chủ yếu là bệnh mạch vành. Nhưng hiện nay, đa số người Việt Nam – kể cả những giáo sư, tiến sĩ đi học nước ngoài về - đều thiếu hiểu biết về bệnh mạch vành và những nguy cơ to lớn do bệnh này gây ra; Nhiều người - kể cả bác sĩ - tới khi đột tử vì nhồi máu cơ tim mà vẫn không hay biết mình bị bệnh mạch vành.
Vì thế tôi lập website http://www.machvanh.com/ này nhằm cung cấp thông tin để mọi người hiểu rõ hơn về mạch vành, về bệnh mạch vành và bệnh thiếu máu lên não ( nguyên nhân gây nên nhồi máu cơ tim và tai biến mạch máu não) , cách chữa trị và biện pháp phòng ngừa. Nhằm làm cho trái tim và khối óc của bạn ngày một khỏe mạnh hơn.
Tôi lập website này với tinh thần của của IRWIN J. POLK – Một bác sĩ, chuyên gia về hen suyễn người Mỹ- rằng : “ đối với chăm sóc và bảo vệ sức khỏe, không gì thành công bằng thông tin kiến thức cho mọi người ”.
Tôi cũng muốn coi việc lập website này như một nén hương lòng gửi tới hương hồn một người, đó là cố giáo sư Tôn Thất Bách. Sinh thời anh đã giúp tôi rất nhiều trong việc nghiên cứu cấu trúc hệ tim mạch - nhất là động mạch vành; anh cũng là người nêu ý tưởng cho tôi dùng Đông y độc lập để chữa trị bệnh mạch vành và thiếu máu lên não... Với tôi anh không chỉ là người thầy mà còn là một người anh, người bạn thân tình.
Trong website này tôi cũng đăng một số đề tài mà tôi đã dày công nghiên cứu và chữa trị thành công trong mấy chục năm qua như chữa hen suyễn khỏi hẳn bằng Đông y, chữa thoát vị đĩa đệm không cần phẫu thuật, chữa vô sinh bằng Đông y, viên Viagra thuần Việt-quà cho quý ông và chữa bệnh Gout v.v…để phục vụ quý vị luôn thể khi ghé thăm “trang nhà” của chúng tôi.
Vì đây là những đề tài chuyên sâu và rất khó đối với y học trong nước cũng như thế giới hiện nay, nên việc trình bày của chúng tôi khó tránh khỏi thiếu sót, có điều gì chưa đầy đủ và thiếu chính xác, xin được các bậc thầy, cùng các đồng nghiệp cũng như các bệnh nhân góp ý, giúp đỡ để trang web ngày càng hoàn thiện hơn. Xin chân thành cảm ơn quý vị.
Tác giả: Đại tá Võ Đình Diên cùng con trai Lương y Võ Thành Trung
“đối với chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ, không gì thành công bằng thông
tin kiến thức cho mọi người”
Irwin J.Polk (Chuyên gia hen suyễn người Mỹ )
I. Bệnh mạch vành (thiếu máu cơ tim cục bộ):
1.Thế nào là bệnh mạch
vành(BMV)- thiếu máu cơ tim(TMCT):
Động mạch vành (ĐMV)là gì ? Qua nhiều năm điều trị, chúng tôi thấy rất nhiều
người, kể cả giáo sư, tiến sĩ đã đi học ở nước ngoài về đều không hiểu động
mạch vành là gì.Ta chỉ cần hỏi: tim bơm
máu đi nuôi khắp cơ thể, vậy ai sẽ nuôi tim? Thượng đế đã làm một điều rất
tuyệt vời là trước khi đưa máu đi nuôi cơ thể, trên thân động mạch chủ, ngài đã
khoan hai lỗ và gắn vào đó hai cái vòi để dẫn máu trở về nuôi tim,giúp tim hoạt
động bình thường, đó chính là 2 động mạch vành: động mạch vành trái và động
mạch vành phải.
Vậy, động mạch vành là động mạch dùng để dẫn máu về nuôi tim,cung cấp năng
lượng cho tim hoạt động bình thường.
Bệnh
mạch vành: Khi lòng động mạch vành vì lý do gì đó bị hẹp lại hoặc tắc nghẽn thì
lượng máu đưa về nuôi tim sẽ bi thiếu, khi đó tim không làm việc bình thường
được nữa, người ta nói tim bị thiểu năng động mạch vành hay bệnh
mạch vành, cũng còn được gọi là thiếu máu cơ tim hay thiếu
máu cơ tim cục bộ.
Trong những năm gần đây, số bệnh nhân bị BMV ngày càng tăng lên và trẻ hóa tuổi
phát bệnh. Trước đây, số bn bị BMV nặng thường rơi vào lứa tuổi trên 50, còn hiện
nay nhiều bn chỉ mới ngoài 20 đã bị tử vong vì nhồi máu cơ tim rồi. Đó là một
dấu hiệu thật đáng lo. Theo thống kê của Hội Tim Mạch Học Việt Nam(6/2010) thì
cứ 3 người VN trưởng thành, có 1 người bị mắc bệnh tim mạch - chủ yếu là bệnh
mạch vành. Với tầng lớp trí thức và những người thành đạt, tỉ lệ này còn cao
hơn nhiều.
2. Nguyên nhân của bệnh mạch vành:
Có nhiều nguyên nhân gây ra bệnh mạch vành, có thể nêu một số nguyên nhân chính
sau đây:
a.Yếu
tố di truyền là nguyên nhân số một :
Hiện
nay nhiều chuyên gia điều tri mạch vành cho rằng mỡ trong máu cao là nguyên
nhân chính gây ra BMV, nhưng với tư cách là một người đã điều trị hiệu quả cao
BMV trong hơn 30 năm qua cho gần 30 ngàn bệnh nhân thì tôi cho rằng di truyền
mới là nguyên nhân số một gây ra BMV. Nếu bố mẹ bị BMV thì các con, cháu của họ
đều bị bệnh này, tuy nhiên mức độ nặng, nhẹ ở các người con sẽ khác nhau tùy
theo đứa con đó ra đời trong điều khiện nào, môi trường sống và làm việc của họ
ra sao, ý thức chăm sóc ức khỏe ở mỗi người tốt hay xấu v.v….Có những dòng họ,
cả họ đều bị bệnh mạch vành. Khi tôi điều trị cho nhiều bệnh nhân thuộc dòng họ
đó, các bác kể rằng cả dòng họ này từ xưa tới nay chưa có ai sống quá tuổi 60,
vì cụ tổ của họ đó đã bị bệnh mạch vành, tuy nhiên trước đây rất khó biết bệnh
này vì năng lực khám, chữa bệnh lúc đó còn rất hạn chế. Trong những năm gần đây
rất nhiều người trong họ đã mất vì nhồi máu cơ tim hoặc tai biến mạch máu não.
Có những gia đình, cả mấy anh em ruột cùng bị BMV, hỏi ra thì bố hoặc mẹ (có
khi cả hai) đã bị mất ví căn bệnh này .Hơn mười năm trước, tôi đã chứng kiến
một gia đình ở vùng Ba Vì ,Sơn Tây trong một năm có tới sáu đám tang đều mất do
nhồi máu cơ tim. Trong mấy chục năm điều trị bệnh hen phế quản, tôi đã phát hiện
ra 1993 cháu từ 2 đến 10 tuổi vừa bị hen, vừa bị BMV, khi khám cho bố, mẹ các
cháu thì thấy cả bố mẹ hoặc một trong hai người đã bị BMV. Vì thế, tôi cho rằng
yếu tố di truyền mới là nguyên nhân hàng đầu của BMV.( Xin mời quý vị đọc thêm
bài: Bệnh mạch vành- di truyền là nguyên nhân số một, tôi
cùng đăng trên trang Web này)
b. Mỡ trong máu cao hay còn gọi là gan nhiễm mỡ:
Khi
coleteron trong máu cao, các hạt mỡ sẽ bám vào thành động mạch, lâu dần tạo
thành một lớp mỡ, làm hẹp lòng động mạch, cản trở dòng máu tới nuôi tim. Lớp mỡ
đó trong y học gọi là xơ vữa động mạch.
Mấy năm trước, anh Cao M, con trai bác Cao Địch N từ Hà Nội vào thăm bố, gia
đình mời tôi sang ăn cơm, trong tiệc vui anh hỏi tôi về bệnh tình của bố. Khi
tôi nói về bệnh mạch vành bị xơ vữa làm tắc nghẽn anh đã kể cho tôi một thí dụ
rất hay, anh kể: sau Tết vừa rồi chậu rửa bát nhà em bị tắc, nước không thoát
được, em đi hỏi khắp mọi người làm sao để khắc phục, vì nhà vừa xây nếu đục ra
làm lại thì quá phức tạp. May có một anh bạn giới thiệu tìm đến một vị “sư
phụ”, chuyên nghiên cứu về những trắc trở trong xây dựng để hỏi, ông bảo: điều
đó đơn giản, chỉ cần “một chầu bia” thôi. Em bảo mấy chầu cũng được, mong “sư
phụ” chỉ giáo! Ông nói “ việc này chỉ cần tôi bảo cho vợ chú làm là xong”. Trời,
may em có làm được chứ vợ em biết gì về xây dựng. Ông lại hỏi “nhà chú hay ăn
thịt bò phải không ?” Rồi ông cười, vì hay ăn thịt bò nên khi rửa bát đĩa có
nhiều mỡ trôi vào trong ống thoát, Hà Nội vừa rồi trời lạnh trên dưới 10 độ nên
mỡ bám vào ống thoát càng nhanh và chỉ một thời gian ngắn sau thì mỡ sẽ lấp đầy
ống, làm cho ống bị tắc; bây giờ chú về bảo với bà xã nấu cho tôi 3 nồi nước
sôi, đổ vào đấy mỡ tan thì ống sẽ hết tắc. Ông còn dặn thêm cũng không cần nước
thật sôi vì sẽ làm hỏng ống nhựa phía trong, và từ nay nếu trời lạnh phải rửa
bát bằng nước nóng. Em về nói với bà xã, chỉ mới đổ một nồi nước nóng thì ống
đã bắt đầu thông, nồi thứ hai thì ống thông hoàn toàn. Có phải mỡ tắc trong
mạch vành cũng thế phải không ạ ? tôi nói: về hiện tượng thì rất giống nhau còn
nguyên nhân thì có khác, mặt khác mỡ trong ống là mỡ chín, gặp nước sôi là tan
ngay, còn mỡ trong mạch vành là mỡ sống, giải quyết để tan được nó là cả một
vấn đề nan giải, nhưng câu chuyện của chú rất hay vì nó giúp người ta hiểu ra
mỡ làm tắc mạch vành là như thế nào.
c.Sự lắng đọng và thẩm thấu can xi: tại viện nghiên cứu Y
Hoá Học Phòng Ngừa của Nhật Bản khi phẫu thuật tim của những bệnh nhân chết vì
bệnh tim mạch, người ta đã phát hiện ra chất vôi lấp đầy trong các cơ tâm, làm
cho trái tim cứng như đá vậy
Ngoài ra còn một số nguyên nhân khác như:
- Lứa tuổi, giới tính, hút thuốc lá, béo phì, nghiện rượu bia, it hoạt động thể
lực, thường xuyên căng thẳng thần kinh (stress) cũng có nhiều nguy cơ gây BMV
3.Những biểu hiện của bệnh mạch vành:
Với kinh nghiệm của một người đã mấy chục năm điều trị khá thành công bệnh mạch
vành,chúng tôi có thể đưa ra mấy dấu hiệu sau để mọi người có thể phát hiện sớm
BMV :
- Đau nhói ở ngực: (Tây y thường gọi là đau thắt ngực). Đây là điếm phản ứng
thường hay gặp nhất ở BMV.Về vị trí , điểm nhói này thường hay gặp nhất là trên
ngực trái, nhưng cũng có khi xuất hiện trên mỏm vai trái hoặc ở sau lưng bên
trái.
- Đau đầu, chóng mặt hoặc buồn nôn đi kèm, có khi bị ngất xỉu….giống như hội
chứng tiền đình, thực ra đây không phải là hội chứng tiền đình mà là thiếu máu
lên não.
-Tức
ngực khó thở, nhiều lúc như bị hụt hơi .
- Khó ngủ, ngủ thường không ngon giấc, có khi ngủ hay mộng mỵ hoặc mớ sảng.
- Rất mệt khi hoạt động quá sức: Khi lao động hoặc tập luyện thể thao quá sức,
hoặc khi phải chạy nhanh một vài trăm mét, khi leo dốc hoặc khi leo nhanh lên cầu
thang (đặc biệt leo lên cầu thang là rõ nhất) thì thấy người mệt lả, tim đập
dồn, thở dốc, chân như muốn khuỵu xuống, xuất hiện đau nhói ở ngực …
- Ngủ đêm thường hay bị chuột rút (vọp bẻ), có khi chỉ trở người nhẹ cũng bị
rút đau cứng cả bắp chân.
Dấu hiệu chung cho người bi BMV là giống như người giả đò : đang vui vẻ
khoẻ mạnh thế mà làm việc gì nặng một tý là như người hết hơi, mệt mỏi rã rời…
Cũng có số ít người bị BMV nhưng không hề có những biểu hiện bên ngoài
như trên, những trường hợp này được y học thế giới gọi làthiếu máu cơ tim thầm lặng. Những trường hợp này rất nguy hiểm, bệnh nhân không được biết sớm
mình bị bệnh mà điều trị, dự phòng, mãi cho tới lúc bị nhồi máu cơ tim hoặc tai
biến mạch máu não, mới biết mình bị BMV thì đã quá muộn, có khi gây hiệu quả
nghiêm trọng, không kịp trở tay.
Tuy
nhiên, việc phát hiện ra BMV là rất khó khăn, có trương hợp qua nhiều bệnh viện,
đi khám nhiều lần mà vẫn không phát hiện ra, điều này không chỉ xảy ra với
những người ngoài ngành y mà cả với bác sĩ, cả với tướng lĩnh cấp cao trong
quân đội và công an v.v…. Năm trước chị N N L, trưởng khoa xét nghiệm của BV
lao Phạm Ngọc Thạch tới tôi lấy thuốc BMV cho cụ thân sinh. Chị kể tôi nghe về
bác sĩ BL là bạn của chị, hơn 10 năm trước là một bs được khen là giỏi về tim
của Sài Gòn, chị làm ở khoa tim BV Chợ Rẫy , đồng thời tham gia giảng dạy ở bên
Đại học Y, một hôm chị tới viện làm việc được một lúc thì đổ gục xuống bàn,
chuyển qua cấp cứu thì không cứu kịp, chị đã mất vì nhồi máu cơ tim. Sau một
thời gian nguôi ngoai nỗi buồn, người ta mới hỏi anh chồng của BL- cũng là một
bs tạii BV chợ Rẫy- rằng trước đó BL có biết mình bị BMV không? Anh bảo: “ cô
ấy chưa bao giờ bảo mình bị BMV, cả tôi cũng chưa bao giờ nghĩ vợ mình bị BMV.
Chỉ mấy hôm trước đó, thấy BL hơi mệt mỏi, hay thở dài như người hụt hơi, tôi
bảo: Em có vẻ hơi mỏi mệt đấy, cần phải đi khám xem thế nào, không lo vì công
việc mà chủ quan được đâu! Cô ấy bảo: để
rồi em sẽ đi khám, nào ngờ chưa kịp khám ra bệnh thì cô ấy đã ra đi rồi!” Mấy
tháng trước, tôi có ra Hà Nội họp mặt đơn vị cũ là “Trường Văn hóa Bộ quốc
phòng”, gần 30 năm trước tôi từng là trưởng khoa giáo viên ở đó. Tôi cũng từng
là tiểu đoàn trưởng một tiểu đoàn học viên của trường. Các tướng lĩnh trong
quân đội trước đây đa số đều biết trường này, vì phần lớn trong số họ đều đã
qua đây học văn hóa trước khi đi học các trường khác trong nước hoặc nước
ngoài. Biết tôi ra, nhiều tướng lĩnh đã gọi điện đón tôi về chơi và nhờ tôi
khám bệnh cho họ cùng gia đình. Trung tướng Cao Tiến Ph- nguyên chánh văn phòng
Bộ quốc phòng bảo rằng ông hay bị đau gót chân, thỉnh thoảng tê chân và tức
ngực, khó thở đã chữa ở nhiều viện cả quân đọi va dân sự ở Hà Nội mà không đỡ,
người hay mệt mỏi. Khám cho ông tôi kết luận ông bị BMV, thiếu máu và máu không
lưu thông trong cơ thể nên mới bị như vậy. Cả bà Th-vợ ông- cũng bị bệnh như
vậy. Hiện nay, cả hai vợ chồng ông đang uống thuốc của tôi. Hôm trước, chi Th
gọi điện cho tôi nói rằng: “có lẽ vợ chồng tôi phải uống thuốc của chú suốt đời
thôi”. Tôi hỏi sao ạ? Chị bảo: vợ, chồng tôi trên, dưới bảy mươi rồi, sinh
nhiều bệnh, uống thuốc tây mãi không đỡ, nay uống thuốc của chú khỏe lên nhiều
nên phải theo chú thôi.” Tôi cam ơn anh chị. Thiếu tướng Đặng Vũ S, trưởng ban
cơ yếu chính phủ, là cháu ruột của thượng tướng Đặng Vũ H , nguyên phó chủ
nhiệm TCCT, mà những ai là lính, thuộc thế hệ BabyBoomers đều biết, tìm đến tôi
và nói : Em biết mình bị tim, sức khỏe hồi này giảm sút nhanh, làm việc cường độ
cao không chịu được, nhưng đã đi khám nhiều bệnh viện – cả dân sự và quân đội –
các bác sĩ đều bảo tim em bình thường, nhờ thầy xem hộ. Tôi khám cho S và khẳng
định: Em bị BMV. Hiện nay S đang uống thuốc của tôi, anh rất mừng vì “thuốc chữa
bệnh mạch vành Vũ Nguyên” của tôi đã giúp anh hồi phục sức khỏe rất tốt. Tôi
nói với S rằng, việc các bác sĩ không phát hiện ra BMV cũng là chuyện thường
tình thôi, vì ở các nước tiên tiến, các giáo sư về tim tới lúc tử vong vì nhồi
máu cơ tim vẫn không biết mình bị BMV vẫn xáy ra mà. Tôi kể S nghe chuyện, một
cậu học trò cũ của tôi đi học y ở nước ngoài về, anh là một sinh viên xuất sắc,
đã từng tới Mỹ dự thi “ sinh viên y khoa tài năng”, khao khát muốn đươc vào làm bác sĩ ở chuyên
khoa tim nhưng không được. Sau mấy năm công tác, anh xin đi học tiến sỹ về tim,
anh đã sang bên đó tìm được giáo sư hướng dẫn, hẹn về nước 3 tháng sau quay lại.
Nào ngờ, anh đang chuẩn bị để hai tuần nữa sang đó thì nhân được hung tin: giáo
sư hướng dẫn của anh đã qua đời vì nhồi máu cơ tim cấp, mặc dù trước đó người
ta bảo ông chưa bao giờ là bệnh nhân của khoa tim mạch. Chẩn đoán BMV là khó thế
đấy, nhưng việc điều trị nó lại càng khó hơn!
4. Điều trị BMV a.Theo Tây Y : Hiện tại có 4 phương pháp điều trị bệnh mạch vành: a1.Điều trị nội khoa bằng thuốc Tây y:
Việc điều trị nội khoa bằng thuốc Tây y nhằm tăng cường lượng máu về tim và làm
giảm các cơn đau thắt ngực. Cụ thể các thuốc điều trị cần giải quyết tốt các
vấn đề sau:
1.Làm giãn mạch vành
2.Làm giảm mỡ trong máu
3.Chống quy tập tiểu cầu
4.Điều chỉnh huyết áp
5.Điều chỉnh nhịp tim
6.Thuốc chẹn kênh calci
7.Lợi tiểu
Đồng thời kết hợp tập luyện, điều chỉnh lối sông,điều chỉnh chế độ ăn uống,giảm
chât béo trong khẩu phần ăn hàng ngày, giảm rượu, bia, bỏ thuốc lá v.v…
Về các thuốc cụ thể tôi không nêu ở đây, vì điều trị bênh mạch vành rất phức
tạp, cần có bác sĩ chuyên khoa theo dõi sát và xử lý kịp thời những diễn biến
bất thường.
Điểm yếu của phương pháp này là khi động mạch vành hẹp nhẹ (dưới 50%) thì thuốc
có tác dụng nhất định, còn khi mạch bị hẹp nặng (trên 70%) thì thuốc tỏ ra kém
hiệu quả, không tránh khỏi xảy ra nhồi máu cơ tim. Khi đó phải đặt stent. a2.Điều trị can thiệp động mạch vành( ĐMV):
Gồm có nong ĐMV và đặt stent: được dùng cho các trường hợp BMV mà điều trị nội
khoa tỏ ra kém hiệu quả hoặc các trường hợp bị nhồi máu cơ tim cấp hoăc đột
quỵ.
Nong ĐMV là dùng một quả bóng nhỏ được đẩy theo động mạch đùi hoặc theo động
mạch cẳng tay vào tận chỗ tắc ở trong ĐMV, sau đó bóng được bơm căng lên, làm
giãn rộng lòng ĐMV, rôi bóng được xả hơi, rút ra khỏi cơ thể : lòng ĐMV đã
thông, máu về tim tốt hơn. Nhưng chỉ vài tháng sau, lòng ĐM đã có thể bị tái
hẹp. Để mở rộng lòng ĐM một cách ổn định hơn, người ta đặt vào chỗ tắc vừa được
nới rộng một giá đỡ (stent) bằng thép đặc biệt. Stent là một ống thép mỏng cấu
trúc dạng mắt lưới, được gá vào ngoài quả bóng. Khi tới vị trí tắc nghẽn bóng
được bơm lên áp suất từ 15 tới 20 atmôtphe, làm cho ống thép giãn ra, ép chặt
vào thành động mạch, bóng được xả hơi và rút ra, stent nằm cố định lại đó.
Hiện nay, 80% các trường hợp tắc động mạch được chỉ định đặt stent và 20% còn
lại phải mổ mở.Thế giới từ những năm 80 đã đưa đặt stent vào điều trị thường
quy, còn ở Việt Nam đầu thế kỷ này mới đạt được điều đó. Tuy nhiên không phải
trường hợp hẹp mạch vành nào cũng đặt stent được và không phải trường hợp đặt
stent nào cũng thành công. Những ca sức khoẻ yếu quá do tuổi cao, do bệnh nặng
hoặc đi kèm những bệnh khó khác như huyết áp cao, tiểu đường thì không dám đặt
stent vì dễ bị đột quỵ hoặc tử vong ngay trên bàn mổ, khi bơm bóng lên đến áp
suất từ 15 tới 20 at. Có những ca hẹp nhưng đầu dò không đẩy vào được thì cũng
không đặt được stent.
a3 .Điều trị phẫu thuật bắc cầu ĐM vành:
Khi các biện pháp điều trị nội khoa hay can thiệp đặt stent không giải quyết
được tình trạng tắc nghẽn mạch vành thì người ta phải dùng phương pháp phẫu
thuật bắc cầu động mạch vành: đó là phương pháp phẫu thuật nối động mạch chủ
với động mạch vành vượt qua chỗ bị tắc nghẽn.
z
Bắc cầu nối chủ - vành
a4.Dùng tế bào gốc:
Trong trường hợp các phương pháp điều trị của Tây y bế tắc- chỉ số EF( phân
suất tống máu) chỉ đạt dưới 40% (trong khi người bình thường đạt > 50%),
bệnh nhân có dấu hiệu suy tim-người ta chuyển sang nghiên cứu ứng dụng tế bào
gốc để phục hồi các tế bào của cơ tim. Viện Tim Mạch quốc gia là đơn vị đầu
tiên ở nước ta áp dụng kỹ thuật này để điều trị cho 6 ca đầu tiên vào cuối năm
2009.Tuy nhiên theo GS TS Nguyễn Lân Việt, giám đốc Viên Tim quốc gia, việc
thực hiện còn nhiều phức tạp, vì họ phải đưa bệnh nhân qua Bệnh viện Bạch Mai
để lấy tủy sống, rồi qua BV trung ương Quân đội 108 để lấy tế bào gốc, sau đó
đưa về Việt Đức nuôi tế bào gốc trong 8 tháng,tới tháng thứ 9 mới cấy vào tim
của bênh nhân. Chi phí cho một ca như vậy là khoảng 200 triệu.Kết quả, chỉ số
EFcó tăng thêm được mấy phần trăm. Sau một năm điều trị các tế bào cơ tim bị
nhồi máu của bệnh nhân được hồi phục đáng kể.
Tại Việt Nam cũng như trên thế giới, việc ứng dụng tế bào gốc vào điều trị bệnh
mạch vành vẫn còn trong giai đoạn nghiên cứu và còn nhiều câu hỏi bỏ ngỏ, đang
gây nhiều tranh cãi trong giới khoa học như khả năng đào thải tế bào gốc của cơ
thể như thế nào ? ứng dụng tế bào gốc cho bệnh tim nào là tốt nhất? dùng tế bào
gốc với số lượng bao nhiêu là vừa? con đường đưa tế bào gốc vào cơ thể thế nào
là thuận lợi nhất và có gây phản ứng phụ
gì sau này không? v.v...Sau 6 ca thí nghiệm đầu tiên, sáu năm nay không thấy
người ta tiến hành thử nghiệm thêm ca nào nữa.
Mặc dù trong những năm gần đây thế
giới đã có rât nhiều tiến bộ trong chẩn đoán và điều trị BMV nhưng vẫn có tới
10% bệnh nhân là không thể chữa được bằng tây y. b.Theo Đông y :
b1. Nguyên tắc chung:
Đông
y cho rằng bệnh mạch vành do khí hư, huyết ứ là chính. Việc điều trị cần tập
trung vào mấy tiêu chí sau:
1.Thanh nhiệt, giải độc, chỉ thống.
2.Hoạt huyết, tiêu mỡ, hóa ứ.
3.Nhuyễn kiên, tán kết.
4.Ích khí, bổ huyết.
5.Lợi thủy, tiêu thũng.
6.Trừ đờm.
Đó là một việc làm không dễ , bởi bổ khí
thì phải dùng những vị bổ ích nguyên khí và thăng dương, bổ khí ở đây còn có
một ý nghĩa khác là để sinh huyết, vì những người bị BMV nặng thường thiếu máu,
da dẻ xanh xao, môi tím ngắt ; trong khi trừ đờm thì lại cần những vị đạm thấm,
cần hạ khí tiêu đờm. Như tôi đã viết ở phần chữa hen suyễn, việc trừ đờm là vô
cùng khó khăn, và đó cũng là lý do giải thích vì sao “tới nay hen phế quản vẫn
là điều bí ẩn đối với Tây y toàn thế giới” (Theo tạp chí “The Lancet” của Anh). Tới nay chưa có một bệnh viện Tây y
nào trên thế giới chữa khỏi được bệnh hen phế quản, trong khi nhà tôi đã nhiều
đời chữa khỏi hen suyễn. Trong gần 40 năm qua, tôi đã chữa khỏi hẳn hen suyễn
cho cả hàng ngàn bệnh nhân. Mười lăm, hai mươi năm rồi các bệnh nhân đó vẫn
không bị tái phát .Tôi nói điều này để các đồng nghiệp tham khảo, vì những ai
đã từng cấp cứu bệnh nhân bị nhồi máu cơ tim cấp hoặc tai biến mạch náu não đều
thấy ở cổ họng họ đờm ở đâu trào ra quá nhiều. Và trong các trường hợp tử vong,
ta thấy họ giã từ thế giới này đều do nghẹt thở trước khi tim ngừng đập vì suy
giảm chức năng. Mọi phòng cấp cứu nhồi máu cơ tim và tai biến MMN đều phải có đủ
máy hút đờm, có khi chỉ trong 5 phút đã phải hút đờm tới 3 lần, nếu không bệnh
nhân sẽ tắt thở ngay. Mời quý vỵ tới thăm các khoa cấp cứu ở bệnh viện Chợ Rẫy,
Sài Gòn, sẽ chứng kiến sự nghèo nàn, xuống cấp của bệnh viện chúng ta như thế
nào: 3 hoặc 4 bệnh nhân cấp cứu mới có một chiếc máy thở. Những bênh nhân không
có máy thở thì người nhà phải thay nhau bóp bong bóng trợ thở cho bn. Nếu không
có người thì phải thuê osin bóp hộ, mỗi tiếng 50 ngàn. Máy hút đờm cũng thiếu,
nhiều bệnh nhân gồng cả người lên mà rít thở vì không có máy hút đờm. Trong các
sách Yoga hàng nghìn năm trước đã viết: chỉ 2 phút nhịn thở, con người sẽ về
với tổ tiên! Cụ Hải Thượng Lãn Ông đã
từng nói “đờm sinh ra bệnh và bệnh sinh ra đơm” là thế ! Ở chỗ khác cụ lại nói
: “chữa đờm không chữa nhanh được,có khi hết đờm mà hại tới sức khoẻ bệnh nhân,
ông ví chữa đờm cũng như bắt rận , phải từ từ, nếu muốn hết rận nhanh thì chỉ
có cách đốt áo mà thôi “. Nước ta lại nằm trong vùng nhiệt đới, ẩm thấp nên
trong chữa trị bệnh mạch vành thiết nghĩ càng nên quan tâm tới yếu tố “đờm
thấp”.
Tại Trung quốc, bệnh mạch vành là một bệnh được giới nội khoa Trung y quan tâm
nhiều từ những năm 70 của thế kỷ trước. Tai Bắc kinh lúc bấy giờ đã có 16 đơn
vị hợp tác nghiên cứu và từ 1971 đã có rất nhiều bài thuốc chữa mạch vành ra
đời. Sau đây là những bài đáng quan tâm hơn :
Viện nghiên cứu Trung y chế bài Chữa mạch vành số 2 có tác dụng hoạt huyết hóa
ứ, trị mạch vành, tắc mạch máu não có kết quả.
Băc kinh có 4 bài là:” Hoạt huyết thông mạch phiến”, “Sinh mach phiến”, “ Quan
tâm linh”,“Kháng tâm ngạnh hợp tể”. Trong đó Kháng tâm ngạnh hợp tể được coi là
bài nổi tiếng nhất để trị Nhồi máu cơ tim do bệnh viện Tây Uyển kết hợp với
bệnh viện Phụ Ngoại cùng chế. Bệnh viện Giải phóng quân là bệnh viện lớn nhất
của Quân đội Trung Quốc (như Viện Quân Y 108 của ta) có bài “Quan tâm hoàn” ;
Thương Hải có 4 bài là “Phúc phương đơn sâm”; “Tô băng đích hoàn; “Xạ hương bảo
tâm hoàn”, “Quan tâm tô hợp hoàn”. Cáp Nhĩ Tân có bài Tam hiệu quan tâm hoàn .
Triết Giang có bài Dịch tiêm Đan sâm số 2, Thiểm Tây có bài Gia vị Qua lâu Phỉ
bạch thang .
Trong Thiên gia diệu phương của Lý Văn Lượng cũng có 7 bài chữa BMV.
Tôi đã dùng tất cả các bài này chữa bệnh mạch vành , nhưng không có bài nào đạt
hiệu quả cao.
Tôi đã đọc rất nhiều sách Đông y cổ
của Trung Quốc, kết quả cũng không khả quan hơn. Cho tới nay, cả trong sách vở,
cả trên mạng Internet bằng tiếng Hoa và tại các hiệu thuốc lớn tại Trung Quôc
vẫn chưa tìm thấy một bài thuốc đặc hiệu nào để chữa bệnh mạch vành cả. Khi ta
sang du lịch Trung Quốc, tại các thành phố lớn và các trung tâm du lịch, ở đâu
cũng thấy bày nhan nhãn bán hai loại thuốc là An cung ngưu hoàng hoàn và Hoa Đà
tái tạo hoàn. Họ quảng cáo đây là hai bài thuốc cổ nổi tiếng của TQ dùng chữa
nhồi máu cơ tim và tai biến MMN. Rất tiếc, sự thật không phải như vậy! Nhiều bn
sau khi đã dùng 5 , 10 viên An cung ngưu hoàng hoàn mà không hiệu quả, tới xin
điều trị bằng thuốc của chúng tôi, kết quả khá lên ngay. Trong tủ sách Đông y
của tôi- chủ yếu là các sách của Trung y- có tới 12 cuốn có chứa bài “An cung
ngưu hoàng hoàn”. Bài thuốc có 11 vị, trong đó quan trọng nhất là 2 vị Ngưu
hoàng và Xạ hương. Hai vị đó hiện nay cực kỳ hiếm, lấy đâu ra để chế hàng chục
ngàn ký bán khắp Trung Quốc như vậy, nếu không thay bằng hóa chất? Về chỉ định
của bài thuốc, tất cả các sách đều nêu chữa sốt cao kèm co giật và mê sảng! Đấy
đâu phải là dấu hiệu của TBMMN? Lời đồn đại đã tạo ra một kết quẩ ghê gớm vậy
đấy!!!
Trong kho tàng y học cổ cũng như hiện
tại, Trung y của Trung Quốc đã có nhiều bài thuốc rất quý hiếm, rất có giá trị
trong việc chữa trị các bệnh khó, nhưng không dễ gì các bài thuốc quý đó được
đăng lên sách vở hoặc các phương tiện truyền thông. Có khi nó là “gia bảo”
trong các dòng họ hay các gia tộc làm thuốc lâu đời mà thôi. Điều đó cũng đúng
thôi, nhất là trong cơ chế thị trường như hiện nay, bởi họ đã mất bao công sức,
bao năm tháng, bao thế hệ cha truyền con nối mới ra được một bài thuốc quý như
vậy, làm sao họ dễ dàng truyền “ không công” cho người khác được !
Vậy là phải tự nghiên cứu thôi.Tôi tiếp
tục trở về với bài thuốc gia truyền mà các cụ nhà tôi để lại, đồng thời phải
nghiên cứu sâu hơn về Tây y với các động mạch vành. Nhờ kết hợp chặt chẽ giũa
Đông và Tây y mà tôi mới có được bài thuốc hiệu quả để chữa bệnh mạch vành và
thiếu máu lên não như hiện nay.
Một vấn đề đặt ra là tại sao Tây Y lại không chữa được bệnh mạch vành bằng nội
khoa, phải dùng ngoại khoa can thiêp ? Ta hãy đọc những lời của BOKUSO TERASHI
, một giáo sư Nhật Bản am hiểu sâu sắc cả Tây y lẫn Đông y,ông nguyên là chủ
tịch hội Y học Phương Đông của Nhật Bản, khi so sánh 2 nền y học này như sau:
“Tây y có hai thế mạnh là cận lâm sàng và ngoại khoa nhưng lại có 2 điểm yếu là
không phục hồi được chức năng nội tạng và kém trong chẩn đoán sớm và điều trị
phòng ngừa, còn Đông y có 2 thế mạnh là phục hồi được chức năng nội tạng và
chẩn đoán sớm để điều trị phòng ngừa nhưng lại có 2 điểm yếu là không chỉ ra
được định lượng chính xác về các thông số bệnh và không mạnh trong cấp cứu”. Thật
là một nhận xét tuyệt với khó có nhận xét nào hay và chính xác hơn thế được !
Tôi đã dựa trên nhận xét này,để phát huy thế mạnh của Đông y và kết hợp với các
kiến thức nghiên cứu được từ Tây y mà nâng bài thuốc gia truyền lên một cấp độ
mới cao hơn, thoả mãn các yêu cầu để vừa điều trị thành công bệnh động mạch
vành (hẹp mạch vành, nhồi máu cơ tim), vừa điều tri thành công bệnh mạch máu
não (thiếu máu não, tai biến mạch máu não).
Bài thuốc của chúng tôi bây giờ không chỉ đáp ứng được 7 yêu cầu của điều trị
Tây y nói trên mà còn cao hơn nhiều là nó còn phục hồi được chức năng thận để
bổ tủy sinh thêm huyết và phục hồi được chức năng tim để tim bơm máu tốt hơn đến
mọi chốn, mọi nơi trong cơ thể.
Quý
vị hãy hình dung mình đang có một ngôi nhà lớn,làm sao để đưa được nước tới các
phòng ở xa trung tâm nhất và các phòng ở cao nhất. Ta dễ dàng thừa nhận rằng
điều kiện cần và đủ để thoả mãn yêu cầu trên là : “nước phải đủ, bơm phải khoẻ
và các ống dẫn nước phải thông”. Chiếu sang cơ thể con người ta thấy nước là máu,
bơm là quả tim và các ống dẫn là các động và tĩnh mạch. Muốn đưa được máu tới
nơi cao nhất là não và nơi xa tim nhất là đầu các chi thì máu phải đủ, tim phải
khoẻ và các tĩnh, động mạch phải thông suốt phải không quý vị. Các thuốc Tây y
cũng như can thiệp đặt stent hay mổ bắc cầu ĐMV chỉ mới tập trung làm cho động
mạch-tức ống dẫn – thông để tăng lượng máu về tim nhằm phục hồi chức năng tim
tốt hơn mà chưa giải quyết để làm tăng lượng máu trong cơ thể. Quan sát các bệnh
nhân bị thiếu máu cơ tim nặng,nhất là phụ nữ ta thấy da họ thường xanh mai mái,
môi tím tái, họ thường hay đau đầu, hoa mắt, thị lực, trí nhớ suy giảm (hay
quyên),chứng tỏ máu đưa lên phía trên đầu bị thiếu. Đầu các ngón tay, ngón chân họ thường hay tê,
nhức, mỏi vì máu dẫn truyền tới chúng bị thiếu. Tất cả điều đó nói lên rằng họ
không chỉ thiếu máu ở tim mà còn thiếu máu khắp toàn cơ thể. Cần phải tăng
lượng máu trong toàn cơ thể lên thì mới đủ máu để phân phối đi khắp toàn thân,
cũng giống như phải có đủ lượng nước ở bể chứa thì máy bơm mới cung cấp đủ nước
cho toàn ngôi nhà chứ. Tăng lượng máu còn có một ý nghĩa vô cùng sâu xa mà tôi
chưa thấy một thầy thuốc, một sách vở hoặc một bài viết nào trên mạng nhắc tới.
Ta hãy xem, Cụ Hải Thượng Lãn Ông đã viết:” Sông ngòi của trời đất cũng giống
như huyết mạch của con người, nước đầy thì sông chảy thông suốt, huyết đủ thì
truyền đi muôn nơi, làm gì còn có ứ trệ”. Chỗ khác cụ lại viết: “ khí huyết
cũng như nguồn suối, đầy đủ thì chảy lưu thông; thiếu, ít thì sinh ủng trệ”.
Tôi quê xứ Nghệ, nhưng phần lớn những năm tháng qua lại sống bên sông Hồng, tại
Hà Nội; có thời kỳ quanh năm ngụp lặn trên sông Hông, mới thấy rằng quan sát
của Hải Thượng Lãn Ông cực kỳ tinh túy. Mùa nước đầy, sông chảy thông suốt,
nhưng mùa nước cạn thì không những thuyền bè tắc nghẽn mà dòng nước chảy đi
cũng thấy khó khăn. Qua đó ta thu hoạch được điều gì? Có phải là tăng lượng máu
lên thì dòng chảy trong huyết mạch sẽ được thông suốt hơn, khi đó huyết áp sẽ
hạ xuống, sự tắc nghẽn sẽ được thanh trừ. Tôi rất tâm đác ý này, phần lớn những
thắng lợi của tôi trong điều trị tim mạch cũng cũng từ đây mà ra. Tuy nhiên cho
tới nay, Tây y chưa có cách gì để bổ máu, thiếu máu thì chỉ có cách truyền máu
thôi. Có nhiều bác sĩ nói uống viên sắt để tăng máu. Nói thế không đúng, uống
săt chỉ tăng được thành phần vi lượng của sắt trong máu, còn không tăng được
lượng máu cho cỏ thể.
Trên cơ sở nhận thức mới
đó, lần này tôi đẩy bài thuốc lên mức cao hơn: vừa làm thông huyết mạch, vừa
làm tăng lượng máu cho cơ thể, kết quả điều trị đã mạnh lên một cách rõ rệt,
nhờ đó tôi đã chữa cho hàng trăm bệnh nhân không cần phải đặt stent hoặc mổ bắc
cầu động mạch vành nữa, mặc dù trước đó các bác sĩ đã lên kế hoạch can thiệp.
b2..Bài thuốc gia truyền của chúng tôi:
VN – 09
THUỐC CHỮA BỆNH MẠCH VÀNH VŨ NGUYÊN
(Bài
thuốc chế biến từ thảo dược)
Thuốc
có công năng khai thông tắc, nghẽn, mở rộng lòng động, tĩnh mạch, làm tan huyết khối và tăng
lượng máu trong cơ thể, giúp bệnh nhân không cần đặt stent hoặc mổ bắc cầu ĐMV.
Thuốc được dùng để chữa các bệnh:
1.Bệnh
mạch vành và di chứng TBMMN.
2.
Hở, hẹp van tim, phòng ngừa thay van tim
3.
Tiểu đường. Điều hòa huyết áp
4. Phòng ngừa và tham gia chữa trị ung thư.
.Thuốc
còn có tác dụng CHỐNG LÃO HÓA: Dùng
lâu giúp người ta KHỎE, TRẺ,
ĐẸP và TRƯỜNG THỌ
hơn .
Liều
dùng: Ngày uống 2 đến 3 lần, mỗi lần 2 muỗng đầy trước bữa ăn 10 phút.
Kiêng
kỵ:-Không dùng cho phụ nữ có thai.
-Khi sử dụng thuốc này
không dùng các thứ cay nóng và sống lạnh.
Bài "Thuốc chữa bệnh mạch vành Vũ Nguyên" này cùng bài “
Thuốc hen Vũ Nguyên” đã được Bộ y tế cùng Ủy ban Văn hóa, giáo dục, thanh niên,
thiếu niên và nhi đồng của Quốc hội, Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật
Việt Nam và Cục sở hữu trí tuệ tặng Huy chương vàng “Dược phẩm an toàn vì
chất lượng cuộc sống”. Chương trình trao giải thưởng đã được truyền hình trực
tiếp trên kênh TV Hà Nội- H1- từ 14h đến 16h ngày chủ nhật 4/10/2015 với tên: "Y dược học Việt nam vì sức khỏe người Việt”. Qúy vị có
thể vào đây để xem chương trình đã truyền hình trực tiếp (đoạn 38 phút 28 giây):
b3. Điểm khác biệt
của bài thuốc chúng tôi so với thuốc nội khoa Tây y là:
1.Hiệu quả: Điều trị bằng thuốc của chúng tôi hiệu quả hơn hẳn so với các
loại thuốc Tây y và Đông yhiện đang lưu hành: Vì rằng
thuốc của chúng tôi có
khảnăng khaithông tắc
nghẽn, mở rộng lòng động mạch, tĩnh mạch, làm tan huyết khối và tăng tăng lượng máu trong cơ
thể: Khai thông tắc nghẽn và làm tăng lượng máu là 2 nét chính trong bài thuốc của chúng tôi. Cho tới nay, đây là bài thuốc duy nhất làm được điều này, chưa có bất cứ
bài thuốc nội khoa nào làm được điều đó cả. Bên Tây y, với những bệnh nhân thiếu nhiều máu, chỉ có cách duy nhất là truyền máu cho họ thôi. Nhờ tăng được lượng máu trong cơ thể nên mới đủ máu phân phối tới mọi bộ phận trong cơ thể để tiêu trừ nhiều loại bệnh và làm cho làn da hồng hào sáng đẹp hơn. Mọi người, nhất là người già, uống thuốc của chúng tôi từ 2 tháng trở lên đều thấy da mình mịn màng, săn chắc và hồng hào lên.
Khi
lòng động mạch bị hẹp, các thuốc nội khoa của Tây y chỉ giúp làm chậm quá trình
chít hẹp lòng động mạch mà không mở rộng được lòng động mạch, còn thuốc của
chúng tôi thì có thể mở rộng lòng động mạch, làm cho máu lưu chuyển được dễ
dàng hơn. Tất cả bệnh nhân bị BMV điều trị bằng thuốc của chúng tôi đều đạt hiệu quả tốt. 2. Giúp bệnh nhân bị hẹp lòng động mạch vành trên 70% không phải đặt stent hoặc mổ bắc cầu: Khi lòng động mạch bị hẹp trên 70% hoặc bị tắc hoàn toàn hoặc hẹp
khít ( trên 90% ), thuốc Tây y đành bó tay, nhưng thuốc của chúng tôi có thể
khai thông điểm tắc nghẽn đó, khôi phục lại dòng chảy đưa máu về tim. Giúp bệnh nhân không cần đặt Stent hoặc mổ bắc cầu động mạch vành Những điều này đã được kiểm
chứng qua nhiều bệnh nhân đã điều trị ở chỗ chúng tôi trong nhiều năm qua. Đây cũng là điểm mạnh khác biệt của bài thuốc chúng tôi, mà chưa có bài thuốc nào làm được. Một
điều cũng cần nói nữa là những bệnh nhân đã đặt 8,9 stent, Tây y không làm gì
được nữa rồi, mà tuổi đời họ mới chỉ 50- 55 thôi, chấp nhận để họ hy sinh sao ?
Trong những trường hợp này, thuốc của chúng tôi vẫn phát huy tốt, nó giúp khai
thông những điểm hẹp tiếp theo và cả những stent sắp bị tái hẹp, nhằm kéo
dài tuổi thọ cho các bệnh nhân thêm chục năm nữa không có gì khó khăn , nếu họ
tich cực điều trị và tuân thủ lời khuyên của thầy thuốc.
3.Tiết kiệm tiền cho bệnh nhân: So với đặt stent thì điều trị bằng thuốc của
chúng tôi rẻ hơn rất nhiều lần.
Có một thực tế rất đáng buồn là bệnh
nhân mạch vành ít khi chịu điều trị lắm, kể cả khám ra bệnh thì họ vẫn mặc, chỉ
khi nào có chỉ định đặt stent hoặc mổ bắc cầu ĐMV thì họ mới cuống lên vì sợ
nguy hiểm cho tính mạng. Đặt một stent hiện nay giá khoảng 65 tới 80 triệu, nếu
vào BV Tâm Đức thì giá có thể gấp rưỡi lên . Có Bệnh nhân phải đặt hai, ba
stent một lần. Số tiền đó quả là quá lớn với những gia đình trung lưu, còn nhà
nghèo thì đành chấp nhận hy sinh thôi! Thuốc của chúng tôi sẽ giúp họ tiết kiệm
được rất nhiều tiền, vì mỗi tháng chỉ cần 2 tới 3 triệu. Uống trong 3 tói 5
tháng thì không còn nguy cơ phải đặt stent nữa vì độ hẹp sẽ giảm xuống còn vài, ba chục phần trăm nữa, có
trường hợp trở về bình thường. Chưa kể việc đặt stent còn phải tiến hành nhiều
lần, trong nhiều năm sau nữa.
Trong điều kiện kinh tế có nhiều khó khăn
như hiện nay, điều này càng trở nên có nhiều ý nghĩa với một nước nghèo như
nước ta. Và, cả với nước giàu như Mỹ, điều đó vẫn có nhiều ý nghĩa. Những người
nghèo ở Mỹ cũng không mua nổi sổ bảo hiểm. Đa số người Việt chúng ta sống bên
đó, làm nail là chính, mà chủ nail thì không bao giờ mua bảo hiểm cho họ. Nếu không có sổ bảo hiểm làm sao họ dám đi khám tim tại Mỹ, vì tốn rất nhiều tiền. Nhiều Việt kiều bên đó về đây khám trong những dịp về thăm quê, tôi hỏi họ các bác sĩ bên đó kết luận sao ? Họ bảo: người Việt bên đó đa phần không có sổ bảo hiểm, làm sao khám tim được hở thầy! Trong quyển “Một số vấn đề cập nhật trong chẩn
đoán và điều trị bệnh tim mạch 2007”, Giáo Sư Thạch Nguyễn, giám đốc trung tâm
Tim Mạch St Mary Hobart, IN, Hoa Kỳ (là chủ biên của sách) cũng đã viết : “Ngay
cả khi có thể áp dụng được biện pháp tối ưu, thì vấn đề thời sự vẫn còn ở chỗ
đâu là giải pháp tốt nhất với giá cả chấp nhận được cho đại đa số bệnh
nhân.”
4.An toàn cho bệnh nhân : Khi chấp nhận đặt stent hoặc mổ bắc cầu động mạch vành là bệnh
nhân đồng thời chấp nhận 3 thứ : tốn kém, rủi ro và tác dụng phụ. Điều trị bằng
thuốc của chúng tôi sẽ rất an toàn cho bệnh nhân: Các thuốc Tây y điều trị bệnh tim mạch đều có
tác dụng phụ rất đáng kể lên gan, thận, dạ dày… Khi đặt stent hoặc thay van tim, phải uống thuốc kháng đông, thuốc chống đào thải suốt đời, rất hại cho bệnh nhân. Nhưng thuốc của chúng tôi thì
rất bình hòa và an lành cho bệnh nhân (dược thiện mà), vì thuốc được chế biến từ thảo dược và
các vị thuốc đã quen thuộc với con người từ hàng nghìn năm nay. Về rủi ro, đúng
là tỉ lệ rủi ro hiện nay cũng không cao lắm, vào khoảng 20 đến 30%. Nhưng rủi
ro sẽ rơi vào ai ? không ai đoán trước được! Rủi ro là ngoài ý muốn của 3 đối
tượng: cả thầy thuốc, bệnh nhân và người nhà của thầy thuốc và bệnh nhân đều
không ai muốn xảy ra rủi ro. Người ta chỉ biết trước khi tiến hành can thiệp
ngoại khoa, bao giờ bệnh nhân và người nhà cũng phải ký vào một bản cam kết nếu
xảy ra các rủi ro sau… thì người nhà không kiện cáo thầy thuốc và bệnh viện,
nhưng ít ai biết rằng trong bản đó thường người ta không ghi rõ nếu xảy ra rủi
ro thì ai chịu trách nhiệm giải quyết hậu quả… 5. Dễ thực hiện: Vì điều tri
bằng đông y không phụ thuộc nhiều vào cận lâm sàng, nên thầy thuốc có thể tư
vấn qua điện thoại cho quý vị được, bệnh nhân từ xa vẫn được chữa trị
thuận lợi, thuốc men được chuyển tới tận tay an toàn. Chúng tôi miễn phí vận
chuyển thuốc cho bệnh nhân tim trong cả nước.
Trên đây là 5 điểm khác biệt chính của thuốc chúng tôi. Đó cũng chính là lí do để vừa qua đây là bài thuốc chữa mạch vành duy nhất được xét tặng huy chương vàng. ; quí vị cùng các bạn có thể
xem thêm “ Sự ưu việt của Đông y so với Tây y trong điều trị bệnh mạch vành” ở
mục VII, phía dưới.
III.Nhồi máu cơ tim (NMCT): 1.Thế nào là nhồi máu cơ tim :Nhồi máu cơ tim là hiện
tượng khi máu quá thiếu, không đủ để về nuôi tim làm chức năng tim suy giảm đột
ngột, có khi gần như ngừng đập trong giây lát, gây nguy hiểm cho tính mạng – có
thể dẫn tới tử vong 2.Nguyên nhân:các nguyên nhân thường gặp nhất là do mảng xơ
vữa động mạch bị tách ra khỏi thành động mạch hoặc huyết khối làm tắc động mạch
vành, ngăn không cho máu chảy về nuôi tim, có khi còn do co thắt động mạch vành
do các ức chế (stress) đột ngột. 3.Điều trị: a. theo Tây y: Điều trị nhồi máu cơ tim
nhằm mục đích tăng lưu lượng máu về tim bằng cách làm thông những điểm bị tắc
nghẽn trên động mạch vành. - Những thuốc được sử
dụng để làm tan huyết khối hoặc mảng sơ vữa như Aspirin, Heparin và những thuốc
làm tan máu đông khác. - Những thuốc khác được
sử dụng để làm chậm nhịp tim, do đó sẽ làm giảm khối lượng làm việc của tim và
giảm đau thắt ngực. - Nong động mạch vành và
đặt Stent nếu cần trong trường hợp được cấp cứu trong vong 4 – 6 giờ đầu; nếu
chậm hơn thời gian trên người ta còn phải chụp mạch vành kết hợp các phương
pháp khác xem xét khả năng hồi phục của tim tới đâu mà có quyết định chính xác
hơn. b. Theo Đông y:
Cần tập trung bổ mạnh
nội tạng, đặc biệt là các tạng thận, tâm, tì để tăng lượng máu trong cơ thể,
tăng cường chức năng tim và phục hồi chức năng của động mạch vành. Có nhiều bài
thuốc khác nhau tương tự như các thuốc đã nói ở phần chữ bệnh mạch vành. Trong
trường hợp này dùng bài thuốc chữa mạch vành của chúng tôi kịp thời sẽ thu
được hiệu quả rất khả quan . IV.Thiếu máu não (TMN): 1.Thế nào là thiếu máu não:còn gọi là thiểu năng
tuần hoàn não là tình trạnh bệnh lý thường gặp ở người cao tuổi và hiện nay
đang có xu hướng gia tăng và trẻ hoá. Khi đó lượng máu lên não sẽ thấp hơn mức
bình thường ( 50ml/100g não/phút) nên sẽ gây ra các triệu chứng như chóng mặt,
đau đầu, ù tai, suy giảm trí nhớ, rồi loạn cảm xúc, rối loạn thăng bằng, tê bì
tay chân, mất ngủ…. Khi bị thiếu máu não nặng thì sẽ cảm thấy đầu đau dữ dội
như sắp bị vỡ. Với học sinh, sinh viên ở các lớp cuối khi giải các bài tập khó
thường hay đau đầu, căng thẳng nên sớm nghĩ đến khả năng thiếu máu lên não. Về
biểu hiện giữa thiếu máu não và hội chứng tiền đình rất gần nhau nên khi bị
thiếu máu não, rất nhiều bác sĩ đã chuẩn đoán nhầm thành hội chứng tiền đình. 2. Nguyên nhân:có 2 nguyên nhân chính một là do các mảng xơ vữa
hoặc huyết khối làm hẹp lòng động mạch cung cấp máu cho não, hai là do hư sương
sụn đốt sống cổ gây chèn ép vào động mạch sống nền cũng làm giảm lượng máu lên
não.Có 3 động mạch đưa máu lên nuôi não là 2 động mạch cảnh ở 2 bên cổ và động
mạch đốt sống thân nền ( có 2 nhánh nhỏ) chạy ở trong cột sống cổ. Thường những
người bị bệnh mạch vành thì sẽ đồng thời bị thiếu máu lên não.
3.Điều trị: a. Theo Tây y:Cần làm thông các động mạch cảnh và động mạch
sống nền để làm tăng cường lượng máu lên não một cách kịp thời. Các thuốc điều
trị thường dùng là các thuốc làm tan huyết khối và các thuốc chống quy tập tiểu
cầu ( chống đông máu) và các thuốc bổ thần kinh. b.Theo Đông y:thiểu năng tuần hoàn não thuộc phạm vi các chứng
“Huyễn vựng”, “Đầu Thống”, “Thất Miên”, “tiểu trúng phong”… với các liệu pháp
trị liệu hết sức phong phú:. Có thể dùng thuốc, không dùng thuốc, chữa bằng khí
công, xoa bóp… Các bài thuốc tương tự như ở phần mạch vành. V. Tai biến mạch máu não
(TBMMN): 1.Thế nào là nhồi máu não: khi lượng máu cung cấp cho não bị thiếu hụt trầm trọng, thường
giảm đi 80- 90% so với mức bình thường thì người ta ở vào một trạng thái hôn
mê, không làm chủ được tư thế nữa, có thể đột ngột quỵ xuống nên còn gọi là đột
quỵ hay tai biến mạch máu não. Thực ra tai biến mạch
máu não là từ dùng để chỉ chung 2 dạng xuất huyết não và nhồi máu não. Nhồi máu
não thường chiếm 80-85% của tai biến mạch máu não, (nhồi máu não cũng còn gọi
là nhũn não). Xuất huyết não chỉ chiếm 15 đến 20% tai biến mạch máu não. Thường
trong các trường hợp đột tử có người gọi là nhồi máu cơ tim, người khác lại gọi
là đột quỵ, có người cho thế là nhầm lẫn; thực ra cả hai cách gọi đều đúng bởi
lẽ khi đã nhồi máu cơ tim, tim không còn bơm máu được nữa thì làm sao còn có đủ
máu để nuôi não. 2.Nguyên nhân nhồi máu não:cũng vẫn là do các động
mạch đưa máu lên não bị tắc nghẽn bởi sơ vữa động mạch hoặc huyết khối hoặc co
thắt động mạch não đột ngột. 3.Điều trị: a.Theo Tây y: Có thể dùng các loại
thuốc chống đông máu hoặc làm tan huyết khối như ở trên. Ngoài ra, người ta còn
có thể hút các cục máu đông (huyết khối ) hoặc xơ vữa trong các mạch máu não
bằng máy DSA ( máy chụp xoá nền).Khi bn bị nhồi máu não,
cần cấp cứu tới Viện càng sớm càng tốt, đó là cách tốt nhất để cứu vãn tình
thế. Tuy nhiên có một trở ngại lớn cho người nhà là bn bị NMN trước đó thường
không hề có một biểu hiện đau đớn nào, điều này đã được Vương Thanh Nhậm, một
thầy thuốc rất nổi tiếng của Trung Quốc chỉ ra trong Y lâm cải thác từ cách đây
500 năm. Vì thế nhiều khi người nhà không biết người thân của mình bị nặng, tới
khi nhận ra bệnh trọng, đưa đi cấp cứu thì đã quá muộn, không còn cách gì cứu
thoát nữa. b.Theo Đông y:vẫn dùng các thuốc hoạt huyết, bổ khí tiêu đờm,
giãn mạch, bổ tâm, thận để làm tăng lượng máu và sức bơm máu lên não của tim (
nước đủ, bơm khoẻ, các ống dẫn thông ) để tăng cường lượng máu lên não. Khi bị
nhồi máu não, càng được chữa sớm bao nhiêu càng tốt bấy
nhiêu. Tôi vẫn khuyên bn khi bị NMN thì hãy cấp cứu
tới viện ngay, sau khi qua cơn nguy kịch mới kết hợp điều trị đông y thì sẽ cho
kết quả tốt hơn, an toàn hơn. VI. Hậu quả ghê gớm của
nhồi máu cơ tim và tai biến mạch máu não Thiết nghĩ viết về
chuyên đề này mà chưa nói điều này thì không đủ, vì rằng theo tổ chức y tế thế
giới, cứ 2 giây có một người chết vì tim mạch, cứ 5 giây có một trường hợp nhồi
máu cơ tim, 6 giây có một trường hợp đột quỵ ( tai biến mạch máu
não) Tại Mỹ, bệnh mạch vành
là nguyên nhân gây ra tử vong lớn nhất hàng năm, theo báo cáo của hiệp hội tim
mạch Mỹ, gần 900 nghìn người Mỹ chết mỗi năm vì bệnh này. Tại pháp hiện có hơn 3
triệu người bị bệnh mạch vành, và mỗi năm bệnh này cướp đi 50.000
người. Tại Việt Nam, theo thống
kê của hiệp hội tim mạch học Việt Nam (tháng 6/2010), thì cứ 3 người Việt Nam
trưởng thành thì 1 người có nguy cơ mắc bệnh tim mạch, chủ yếu là bệnh mạch
vành. Vì thế, việc phòng ngừa
và chữa trị tích cực đối với bệnh mạch vành là một nhu cầu cấp bách đối với mỗi
người. Hậu quả của nhồi máu cơ
tim và tai biến mạch máu não thường xẩy ra ở bốn dạng sau : + Dạng một : đột tử-ra
đi không kịp trở tay. Đây là hậu quả ghê gớm nhất, trong năm qua, qua phương
tiện thông tin đại chúng, ta có thể bắt gặp rất nhiều trường hợp ra đi như thế
: Đại tá Lý Đại Bàng, công tác tại sở công an thành phố, đã từng là đội trưởng
săn cướp huyền thoại của những năm 70, thế mà một sáng dậy không thấy anh tới
phong làm việc, vào phòng anh tìm người ta thấy anh nằm gục trên bàn, trên tay
còn cầm hồ sơ hình sự, đèn vẫn sáng tivi vẫn mở, chứng tỏ anh đã bị từ tối hôm
trước, đưa anh đi cấp cứu nhưng không cứu vãn được nữa, anh đã ra đi ở tuổi 52.
Chị Ưng Sơn Ca, Trưởng bộ môn Báo in và xuất bản, khoa Báo chí và truyền thông,
Trường ĐH KHXH&NV TP.HCM, 33 tuổi. Mới tối hôm trước còn viết, “Tối mai ngủ
Plâycu, chuẩn bị xa con ba ngày” thế mà sáng dậy
người ta phát hiện chị đã ra đi vĩnh viễn, để lại 2 đứa con thơ. Tiến sĩ thầy
thuốc ưu tú Nguyễn Minh Hải, trưởng khoa ngoại tiêu hóa của bệnh viện Chợ Rẫy,
một người đầy tâm huyết với nghề nghiệp, một tay mổ xuất sắc, vậy mà một sáng
vừa đến phòng làm việc được hơn chục phút người ta vào tìm anh thì đã thấy anh
nằm gục trên bàn, giã từ cõi đời ở tuổi 49. Nghệ sĩ Kim Ngọc, ngày 16/01/2011
trong một buổi giao lưu ở Long Thành, Đồng Nai sau khi vừa ca xong 2 câu vọng
cổ thì chị quỵ xuống, người ta vội vàng đưa chị đi cấp cứu nhưng chị đã không
qua khỏi. Những trường hợp thương tâm như thế chúng ta gặp ngoài đời khá nhiều…
Tất cả các trường hợp trên đều được chuẩn đoán là bị nhồi máu cơ tim
cấp. + Dạng hai: là bệnh nhân
bị hôn mê sâu, chỉ còn đời sống thực vật không nói năng, cử động được nữa, chỉ
nằm liệt giường cho đến ngày ra đi, trường hợp này rất khổ cho người bệnh và
những người thân trong gia đình. + Dạng ba: để lại di
chứng méo mồm, lệch mắt, khó nói, khèo chân, xệ vai… và mất sức lao động vĩnh
viễn. Để chữa trị phục hồi sức khoẻ dạng này cũng không dễ tí nào đối với y học
hiện nay. + Dạng bốn: hầu như
không để lại dấu viết gì ngoài sức khỏe suy yếu, nhưng vẫn tiếp tục công tác
được. Qua đó chúng ta thấy để
chữa trị nhồi máu cơ tim và tai biến mạch máu não chủ yếu là chữa trị dự phòng
(tức là chữa bệnh khi bệnh chưa xẩy ra trầm trọng) là chính, còn khi đã xẩy ra
trầm trọng phải cấp cứu thì kết quả thành công rất thấp. Thế nhưng người ta
thường rất ít chữa trị sớm dù đã được chuẩn đoán bị bệnh mạch vành, thường tới
khi cấp cứu người ta mới cuống cuồng lên tìm nơi chữa trị, không tiếc tiền của.
Tôi đã chẩn đoán bệnh mạch vành cho không dưới 20 nghìn người trong thời gian
qua, nhưng số người tích cực chữa trị thì chỉ là một con số bé nhỏ. Ngay cả khi
đã bị nhồi máu cơ tim và xảy ra đột quỵ cũng cần được chữa trị càng sớm càng
tốt, người ta gọi thời gian 4h sau khi bị bệnh là thời gian vàng, để phục hồi
sức khỏe cho bệnh nhân. Hải Thượng Lãn Ông nói : “Bậc thượng công chữa bệnh từ
xa, khi bệnh chưa xẩy ra, bậc trung công chữa bệnh khi bệnh đã đến gần, còn bậc
hạ công thì chỉ chữa bệnh khi bệnh đã xảy ra trầm trọng, không thể chịu nổi”.
Tôi nói những điều này, muốn nhắn gửi với các bệnh nhân mạch vành rằng quý vị
hãy tích cực tập luyện, điều chỉnh lối sống cho phù hợp, bỏ những thói quen có
hại cho sức khỏe như nghiện rượu bia, thuốc lá, ma tuý…v.v… Trong các biện pháp
tập luyện thông thường thì đi bộ là cách đơn giản và dễ thực hiện nhất, người
Nga nói: “đôi chân là người bạn tốt nhất của trái tim”, mong quí vị lưu ý cho.
Ngoài đi bộ thì chúng ta còn rất nhiều cách tập luyện khác để nâng cao thể lực
như, tập thể dục, chơi thể thao hàng ngày, tập luyện khí công, dưỡng sinh, ngồi
thiền hàng ngày … tuỳ theo hoàn cảnh và điều kiện, mỗi người cần chọn cho mình
một cách luyện tập thích hợp nhất. Ngày nay, thế giới coi “y học dự phòng là
nền tảng của y học hiện đại”- lời của giáo sư Nguyễn Văn Tuấn, một giáo sư
người Việt tại Học Viện Y Học GARAVAN ( Úc) rất tài năng và đã có nhiều năm
giảng dạy, công tác tại Mỹ. Điều đó cho thấy người ta quan tâm đến chữa trị khi
bệnh chưa xảy ra có ý nghĩa quan trọng như thế nào. Bill Gate và cựu tổng thống
Mỹ Bill Clinton đã lập ra quỹ từ thiện để giúp thế giới phát triển y tế cộng
đồng và phòng chống HIV, các ông quan niệm thà bỏ ra một tỉ đô la để hướng dẫn
cho nhân loại phòng tránh bệnh tật còn hơn bỏ ra 10 tỉ đô la để chữa trị khi
bệnh đã trở nên trầm trọng. Rất mong quý vị lưu ý cho những gì tôi đã viết
trong mục này, để giúp cho trái tim của quý vị ngày một khỏe hơn. VII.Sự ưu việt của đông
y so với tây y trong chẩn đoán và điều trị bệnh mạch vành: Có thể nói việc phát
minh ra thông động mạch vành bằng bóng và đặt stent để khắc phục tắc nghẽn các
động mạch là một phát minh lớn của nhân loại, nó đã giúp hàng triệu bệnh nhân
tim mạch trên thế giới thoát khỏi cơn nguy khốn. Thế nhưng đó không phải là
phương pháp duy nhất,chúng ta có thể điều trị bằng Đông y cũng đạt hiệu quả khá
cao và rẻ hơn nhiều so với đặt stent, chỉ tiếc là còn rất ít người biết được
điều đó.Qua hơn 20 năm điều trị bệnh mạch vành và thiếu máu não, tôi đã khám và
điều trị cho không dưới hai mươi ngàn bệnh nhân. Qua thực tế điều trị, chúng
tôi thấy so với Tây y, Đông y có nhiều ưu việt hơn,có thể chỉ ra 12 điểm nổi
trội sau: 1.Về chẩn đoán: Đông y chẩn đoán bệnh mạch vành và thiếu máu não nhanh,
chính xác và rẻ hơn rất nhiều so với Tây y: Chẩn đoán chính
xác bệnh luôn là những đòi hỏi hàng đầu để giúp các thầy thuốc có được quyết
định đúng đắn khi điều trị cho bệnh nhân. Hiện nay Tây y có rất nhiều phương
pháp để chẩn đoán bệnh mạch vành như siêu âm, chụp CT( chụp cắt lớp), MRI (chụp
công hưởng từ) và chụp DSA(chụp xoá nền ) và PET-CT. Trong đó 3 phương pháp đầu
cho kết quả không cao, mặc dù giá chụp CT64(64 lớp) cũng đã 2,8 triệu đồng.
Chụp DSA được coi là tiêu chuẩn vàng trong chẩn đoán động mạch vành, nó giúp
xác định được chính xác số lượng, vị trí tắc nghẽn, hẹp khoảng bao nhiêu phần
trăm , thế nhưng giá chụp lại quá cao-vào cuối năm 2010 giá tại Viện 115 là 6
triệu đồng, tại Viện Tim Sài Gòn là 8 triệu, ở Viên Tim Tâm Đức thì còn cao
hơn. Vì thế bác sĩ rất ít khi cho bệnh nhân chụp DSA, chỉ khi chắc chắn phải
đặt stent thì mới chụp để xác định vị trí tắc nghẽn và đặt luôn. Người ta cũng có thể
dùng PET-CT để : - Xác định nguy cơ nhồi
máu cơ tim qua so sánh theo dõi mức độ tưới máu cơ tim trong lúc thư giãn và
lúc hoạtđộng. -- Xác định vùng cơ tim bị tổn thương có thể điều trị được hay
không. Nếu còn khả năng điều trị thì với các kỹ thuật như tạo hình động mạch
vành, làm cầu nối bypass sẽ giúp cho tim của bệnh nhân có cơ hội lớn phục hồi
lại được chức năng. Nhưng PET-CT không phải là kỹ thuật được sử dụng trong xét
nghiệm sàng lọc đối với bệnh lý tim mạch vành, cũng không thay thế được chụp
động mạch vành. Hiện nay máy FET-CT ở
nước ta còn khá hiếm , cả nước chỉ có 4 máy ( Sài Gòn có 1 máy ở Bệnh viện Chợ
Rẫy, Hà Nội có 3 máy ở Viện Quây 108, Viện Bạch Mai và Việt Đức) nên giá chụp
quá cao : 1,6 ngàn USĐ ở S.Gòn và 1,5 ngàn USĐ ở Hà Nội. Trong khi bằng phương
pháp chẩn đoán Đông y, trong khoảng 10 đến 15 phút chúng tôi có thể khám tổng
quát cho bệnh nhân, xem họ có bị hẹp mạch vành không? có bị thiếu máu não
không? chức năng thận có bị suy giảm không? có bị đau dạ dày không? gan có bị
nhiễm mỡ không? v.v…với tiền khám chỉ 100 ngàn đồng . Rõ ràng khám bằng Đông y
nhanh, chính xác và rẻ hơn nhiều so với Tây y. 2-Đặt stent hoặc bắc cầu ĐMV chỉ giải quyết một số điểm tắc
nghẽn nhất định, tức thời còn điều trị bằng đông y thì cùng lúc làm thông
thoáng được nhiều điểm trên ĐMV cũng như trên toàn thân. Có một sự ngộ nhận mà
hầu như bệnh nhân bị mạch vành nào cũng dễ mắc phải : đó là họ nhầm tưởng rằng
sau khi đặt stent hoặc bắc cầu động mạch vành thì coi như bệnh của mình đã được
giải quyết xong. Thực ra, mỗi lần đặt stent hoặc bắc 1 cầu động mạch vành thì
chỉ giải quyết được 1 điểm tắc. Người ta chỉ đặt stent khi mạch vành bị hẹp từ
70% trở lên, vậy thì các điểm hẹp 60, 65% vẫn còn nguyên vẹn, nên chỉ năm, bảy
tháng hoặc một vài năm sau lại xuất hiện điểm tắc nghẽn mới hoặc tái hẹp cần
đặt stent tiếp.Tái hẹp là hiện tượng mỡ tiếp tục xâm lấn vào trong lòng stent,
gây ra tắc nghẽn tiếp, khi đó phải đặt một stent nhỏ hơn vào trong lòng stent
cũ (còn gọi là đặt stent lồng). Tái hẹp hiện còn chiếm tỉ lệ khá cao(khoảng 30%
số stent đã đặt). Vì thế trong lý thuyết đặt stent của Mỹ viết rằng, một người
bị BMV thì trong đời có thể 1, 2, 3 hoặc nhiều lần phải đặt stent. Nói cách
khác khi một bệnh nhân bắt đầu đặt stent là mở đầu cho một quá trình đặt stent
cho những năm còn lại của cuộc đời mình và số stent cần phải đặt sẽ tăng dần
theo năm tháng. Mặt khác, khi một bệnh nhân bị BMV thì các động mạch trong toàn
thân đều bị xơ vữa, khi đó máu lên não, máu xuống thận, máu về tứ chi...đều có
nguy cơ bị thiếu cục bộ, nếu tắc nghẽn quá mức cho phép thì lại phải đặt stent
vào dó… Điều đó có nghĩa là đặt stent chỉ giải quyết cục bộ, nhất thời. Còn
chữa bằng Đông y thì giải quyết đồng bộ hơn, lâu bền hơn, vì rằng khi động mạch
vành được thông thoáng thì các động mạch lên não và xuống các chi cũng đồng
thời được thông thoáng theo, máu đi nuôi các bộ phận trong cơ thể đều được tăng
cường. Nhiều bệnh nhân đã đặt 3,5 hoặc 7 stent rồi mà ngực vẫn thấy đau tức,
râm ran, người vẫn mỏi mệt, hay hụt hơi, ngợp thở…tìm tới chỗ chúng tôi xin
điều trị bằng Đông y, kết quả rất khả quan, bệnh tình ổn định, nhiều năm nay
chưa phải đặt thêm stent nào, trong khi trước đó trung bình cứ 4 đến 5 tháng phải
đặt thêm một stent. 3- Đông y điều trị rất thành công những ca bệnh mạch vành mà Tây y hiện nay
đang bế tắc: Qua thực tế mấy chục năm
điều trị bệnh mạch vành, chúng tôi thấy số người mắc bệnh này chiếm một tỷ lệ
khá cao: 30% tới 40%. Trong đội ngũ trí thức và những người thành đạt, tỷ lệ
này còn cao hơn nhiều. Khi mức sống của xã hội ngày một nâng lên thì tỷ lệ đó
ngày càng cao hơn và tuổi mắc bệnh đang ngày càng trẻ hóa. Thế nhưng do chưa
nhận thức được tính nguy hiểm của bệnh nên số người tích cực điều trị bệnh này
còn rất ít. Số bệnh nhân tìm tới điều trị ở chỗ chúng tôi đa số là nặng, thường
là những trường hợp tây y bế tắc: thuờng gặp 7 dạng sau: 1. Những trường hợp bệnh nhân được xác định có 2,3 điểm trên
mạch vành bị tắc nghẽn nặng nhưng không đặt stent được vì sức khoẻ bệnh nhân
quá yếu do tuổi cao hoặc do có kèm bệnh tiểu đường, huyết áp quá cao, quá thấp
hay rối loạn nhịp tim … 2. Những trường hợp đã
đặt 8,9 stent hay mổ bắc cầu rồi, nay xuất hiện những điểm tắc nghẽn mới hay
tái hẹp nhưng sức khỏe không cho phép can thiệp tiếp: Thực tế cho thấy rằng
việc đặt stent hay mổ bắc cầu không thể tiếp tục mãi được vì càng về sau, số
điểm tắc nghẽn hoặc tái hẹp càng tăng nhanh trong khi sức khỏe bệnh nhân ngày
càng giảm mạnh, nếu tiếp tục can thiệp rất dễ xảy ra tử vong; cho tới nay tại
các khoa can thiệp tim mạch của các bệnh viện lớn cũng chỉ mới thấy đặt tới 8,9
stent mà thôi, hầu như ít thấy đặt nhiều hơn. Khi đó bác sĩ chỉ còn cách cho
uống thuốc nội khoa - chấp nhận sống chung với lũ - nhằm kéo dài thêm được ngày
nào hay ngày ấy. Nói như vậy vì rằng trước khi đặt stent thuốc điều trị nội
khoa đã tỏ ra kém hiệu quả, buộc phải đặt stent thì nay bệnh đã quá nặng, thuốc
đó làm sao còn đáp ứng nổi ? Còn với những b.n đã bắc
cầu ĐMV lần 1 thì sau đó sẽ có 2 dạng tiến triển bệnh: hoặc bị chít hẹp hay tắc
nghẽn tiếp trên ĐMV hoặc bị chít hẹp hay tắc nghẽn trên cầu nối. Trong trường
hợp này ở các nước như Mỹ, Đức, Pháp,Thụy Sỹ, Thụy Điển v.v…thì họ sẽ mổ bắc
cầu lần 2, lần 3 còn ở nước ta thì hầu như chưa thấy, khi đó bác sỹ sẽ cho uống
thuốc nội khoa cầm cự như trên. Cũng cần nói thêm rằng
hiện nay cả nước ta có gần 30 trung tâm can thiệp tim mạch, tai đó đều có thể
đặt stent không khó lắm, nhưng số bác sỹ có thể mổ bắc cầu ĐMV trong cả nước
thì chỉ đếm đầu ngón tay thôi! 3.Những bn đã mất hai,
ba trăm triệu để đặt 3,4 stent nhưng hiện nay sức khỏe quá yếu, vẫn hay bị
những cơn đau nhói hoặc đau râm ran ở ngực, chỉ số EF không làm sao tăng lên
được 50%, có khi chỉ đạt trên 40%, không đi làm được. Chúng tôi nghĩ rằng khi
đó trên thân động mạch chính của động mạch vành đã thông nhưng trên các nhánh
rẽ còn có nhiều tắc nghẽn, làm cho lượng máu về nuôi tim vẫn bị thiếu hụt.
Người ta không thể đặt stent trên nhánh rẽ được mà thuốc điều trị nội khoa
trong trường hợp này tỏ ra rất kém hiệu quả. 4.Những bn đã đặt stent
lần đầu (có thể một hoặc 2,3 stent), tiếp theo có 2 lựa chọn: hoặc là tiếp tục
uống thuốc tây y để rồi sau đó nếu bị tắc nghẽn hoặc tái hẹp tiếp thì lại tiếp
tục đặt stent hoặc là chuyển sang điều trị đông y để không bao giờ phải đặt
stent nữa. 5.Những bn đã được chỉ
định đặt sten hoặc mổ bắc cầu động mạch vành nhưng kinh tế gia đình khó khăn,
không chạy đủ tiền hoặc sức khỏe yếu hoặc tâm lý lo sợ không muốn điều trị
ngoại khoa tới chỗ chúng tôi xin điều trị bằng đông y. 6.Những bn chưa có chỉ
định đặt stent hoặc mổ bắ cầu, nhưng điều trị nội khoa bằng thuốc tây y không
đỡ, vẫn thường bị hành hạ bởi những cơn đau đầu hoặc đau ngực, hụt hơi, khó
thở, tới chúng tôi xin đều trị bằng đông y. 7.Những bn bị tai biến
mạch máu não hoặc nhồi máu cơ tim sau khi đã qua cấp cứu tây y, để lại các di
chứng như méo mồm, lệch mắt, nói ngọng nghịu, liệt nửa người, hoặc bị suy thận
có nguy cơ phải chạy thận. Những bác sĩ lâu năm, có kinh nghiệm trong điều trị loại
bệnh này đều thấy khi đó điều trị bằng tây y tỏ ra rất kém hiệu quả, chỉ có
chuyển sang điều tri đông y là tốt nhất. Trong những trường hợp
tây y bế tắc như vậy, nhiều b.n hoặc có người giới thiệu hoặc lên mạng Internet
tìm kiếm đã tìm tới chỗ chúng tôi điều trị và đều đạt kết quả tốt đẹp, nhiều
năm nay sức khỏe vẫn ổn định, bệnh nhân ngày một khỏe,trẻ và đẹp ra, không phải
đặt thêm stent nào nữa, chỉ số EF tăng lên, huyết áp ổn định, lượng đường trong
máu giảm về mức bình thường, những trường hợp suy thận có dự báo chạy thận đều
không phải chạy thận nữa.
.4- Về kinh tế : Điều trị bằng Đông y chi phí thấp hơn nhiều lần so với Tây
y.Chi phí này bao gồm 2
khoản là chi phí cho chữa trị (tiền thuốc, công thầy, hao phí máy móc) và tiền
tàu xe đi lại, ăn ở của bệnh nhân và người nhà.Về khoản 1: Nếu đặt một stent
theo giá hiện thời phải mất khoảng 60 tới 80 triệu đồng , nếu đặt 5 Stent mất
khoảng gần 400 triệu,chưa kể một thời gian sau đó lại xuất hiện những điểm tắc
nghẽn mới hoặc tái hẹp, cần phải đặt stent tiếp, cần có hàng trăm triệu nữa.
Trong khi điều trị bằng Đông y, nếu tắc nghẽn ở một điểm,thì chỉ cần một,hai
triệu đồng; nếu tắc nghẽn ở 3 điểm chỉ cần khoảng 5 triệu đồng là đã đạt kết
quả tốt rồi. Với những trường hợp không đặt stent được, phải mổ bắc cầu động
mạch vành thì chi phí còn phải tốn kém hơn nhiều ! Về khoản 2, nếu bệnh nhân ở
xa về Hà Nội, Sài Gòn, Huế điều trị cũng tốn kém đấy chứ. Nằm ở Viện Tim Tâm
Đức một ngày đêm nếu phòng 1 người mất 1,2 triệu đồng, phòng 2 người mất 1,4
triệu đồng ( giá tháng 2/ 2011). Nếu điều trị Đông y, khoản 2 này sẽ không đáng
kể vì chúng tôi gửi thuốc đến tận nhà bệnh nhân, mỗi lọ chỉ mất 10 ngàn
đồng. Nếu tính trung bình đặt
một stent mất 70 triệu đồng, thì lượng tiền đó đủ để uống thuốc của chúng tôi
trong vòng chục năm, mà không phải đặt thêm stent nào nữa, tính ra bình quân
mỗi tháng mất khoảng trên một đồng. Với mức sống hiện nay ở nước ta, chi ra mỗi
tháng trên một triệu đồng để chữa bệnh thì không khó lắm, nhưng để chi ra 70
triệu thì nhiều gia đình quá khó khăn, đành chấp nhận bó tay chịu chết mà thôi.
Chưa tính nếu đặt stent thì trong 10 năm tới sẽ phải đặt tiếp bảy, tám stent
nữa, mất thêm năm, sáu trăm triệu, lo đâu ra số tiền đó. Những người bị BMV
nặng lại thường rơi vào lứa tuổi trung niên hoặc đã nghỉ hưu, việc kiếm ra tiền
càng khó khăn hơn ! Vì thế, bài thuốc của
chúng tôi đặc biệt có ý nghĩa đối với những nước nghèo như nước ta ,nhiều người
dân ốm đau mà không có tiền để chữa trị. 5- Điều trị Tây y dễ gặp rủi ro và tác dụng phụ: Trong bài “ Đột quỵ sau thông tim” đăng
trên mạng(ngày 28/12/2010) BS. Nguyễn Thanh Hiền viết: “Các thủ thuật tại tim
đã và đang là biện pháp ngày càng được áp dụng để chẩn đoán và điều trị bệnh
tim mạch. Đây là thủ thuật xâm lấn, vì vậy dễ xảy ra nhiều biến chứng như: biến
chứng mạch máu, huyết động, loạn nhịp, nhồi máu cơ tim, đột quỵ, bệnh thận do
thuốc cản quang và tử vong...”. Thực tế cho thấy, một số bệnh nhân sau khi chụp
DSA( chụp mạch máu xóa nền) hoặc đặt stent thì bị đột quỵ, và bị tử vong sau đó
không lâu. Mặt khác, sau khi đặt stent bệnh nhân vẫn phải uống thuốc Tây hoàn
toàn như trước khi đặt stent, vì nguy cơ tắc nghẽn vẫn nguyên vẹn như trước,
ngoài ra còn phải uống thêm thuốc chống đào thải stent. Các loại thuốc Tây này
đều dễ gây nên tác dụng phụ cho thận, gan và dạ dày. Về Đông y qua điều trị
nhiều năm, chúng tôi chưa hề thấy tác dụng phụ, tuy nhiên không vì thế mà được
chủ quan, cần phải tiếp tục theo dõi thêm. Về rủi ro của Tây y,
người ta thừa nhận có nhiều mức độ và chiếm tỷ lệ không cao, nhưng nó vẫn là
một câu hỏi lớn cho các bệnh nhân khi bước lên bàn mổ (để chụp DSA hoặc đặt
stent hoặc mổ bắc cầu ĐMV) rằng liệu mình có tránh khỏi rủi ro không? Liệu rủi
ro có chừa mình ra không? Đây là một câu hỏi khó mà không một giáo sư, bác sĩ
nào dám trả lời chắc chắn, vì rủi ro bao giờ cũng xảy ra ngoài ý muốn, ngoài sự
mong đợi của cả thầy thuốc và bệnh nhân. Xin nêu vài thí dụ: Năm 1996, Cựu tổng thống Nga Boris Yeltsin bị bệnh mạch vành nặng, tất các các chuyên
gia y tế hàng đầu của Nga đều nhất trí rằng Yeltsin cần phải được mổ bắc cầu
ĐMV, nhưng các bác sĩ Nga cho rằng ông sẽ không qua khỏi một cuộc đại phẫu như
thế. Trong tình trạng tuyệt
vọng, Yeltsin đành tham vấn bác sĩ Michael E. DeBakey, là một nhà phẫu thuật
tim nổi tiếng trên thế giới, làm việc tại Thành phố Houston, bang Texas (Mĩ),
lúc đó đã 87 tuổi.. Việc Yeltsin phải nhờ đến một bác sĩ nước ngoài như DeBakey
làm cho một số chuyên gia y khoa Nga cau mày, nhưng việc đó đủ cho biết tình
trạng của Yeltsin lúc bấy giờ nghiêm trọng như thế nào! Sau khi bay sang Moscow
và trực tiếp khám bệnh cho Yeltsin một cách cẩn thận, ông cho rằng Yeltsin
không thể sống nổi nếu không giải phẫu, nhưng quan trọng hơn hết, ông đánh giá
rằng Yelstin có thể sống và làm việc được sau cuộc giải phẫu. Sau đó ca mổ đã được
tiến hành bởi bác sĩ Akchurin,dưới sự chỉ đạo trực tiếp của DeBakey cùng với
các đồng nghiệp Mĩ, cuộc phẫu thuật được tuyên bố là thành công. Bác sĩ
Akchurin là người đã từng được DeBakey huấn luyện trong thời gian ông sang tu
nghiệp tại Mĩ. Nhưng mấy năm sau, số điểm tắc nghẽn và tái hẹp tăng lên, tim
của Yeltsin bị suy yếu, người ta cũng đành chịu, không thể bắc cầu lần 2 cho
ông. Tôi viết thêm đoạn này
để thấy rằng giữa đặt stent và mổ bắc cầu ĐMV là một khoảng cách khá lớn, không
phải viện nào cũng làm được. Về bắc cầu động mạch
vành, cũng có nhiều người ngộ nhận là hoàn toàn không nguy hiểm, sự thật là
không phải bao giờ người bệnh cũng lấy lại được sự thuần thục như trước khi mổ.
Trong “ 101 ngộ nhận về sức khỏe” (Zbigniew Wojtasinski ), tại ngộ nhận thứ 87
đã viết: Theo ý kiến giáo sư Mortin M. Hadler thuộc University of North
Carolina at Chapel Hill, tác giả cuốn “The Last Well Person”,sẽ là ngộ nhận nếu tin rằng sau phẩu thuật bắc cầu, tất cả các
bệnh nhân ở độ tuổi lao động đều hoàn toàn khỏe mạnh và có thể trở về với công
việc thường ngày của mình. Các cuộc phẩu thuật mổ
phanh tim rõ ràng đã cứu sống được nhiều bệnh nhân. Nhưng người ta ít nói đến
chuyện chúng có thể gây ra những biến chứng thần kinh và bệnh tâm thần được gọi
là mất năng lực nhận thức, suy giảm trí nhớ sau phẩu thuật. Đây là những hậu
quả phụ còn khá bí ẩn về phẩu thuật mổ phanh tim, nên chúng thường bị lờ đi.
Một trong những nạn nhân của hình thức phẩu thuật này là Bill Clinton, cựu tổng
thống Mỹ, khi ông trải qua ca phẩu thuật bắc cầu động mạch vành vào tháng 9 năm
2004. Từ thời điểm đó, ông đã thay đổi đến mức khó nhận ra. Ông Clinton, một
trong những tổng thống nổi tiếng nhất nước Mỹ, đã mất đi vẻ phúc hậu, mất đi sự
lóe sáng của trí tuệ, và sự tự chủ của bản thân. Những người quen biết ông
khẳng định rằng thậm chí ông đã thay đổi cả tính cách. Ông trở nên nóng nảy,
rất dễ bị mất thăng bằng và gặp khó khăn về suy giảm trí nhớ. Ông cũng đánh mất
phản xạ chính trị nhạy bén đến mức phạm phải những sai lầm mà trước đó ông không
bao giờ mắc phải. Một số chuyên gia thậm chí còn đổ lỗi cho ông về chuyện vào
năm 2008, ông đã góp phần dẫn đến thất bại của bà Hilary trong chiến dịch vận
động tranh cử tổng thống Mỹ, vì ông đã có những phát ngôn thiếu thận trọng gây
bất lợi cho sự cố gắng của phu nhân và những người ủng hộ bà. Các chuyên gia còn cho
thấy, trong các bệnh nhân đã phẩu thuật động mạch vành có: - 37% bệnh nhân bị mê
sảng và xuất hiện những cơn ác mộng. - 42 % bị suy giảm trí
nhớ, 31% không nhớ nổi tên tuổi và những địa danh quen thuộc. - Nhiều
người tỏ ra hết sức lo lắng về những thay đổi trong tâm lý của mình, 30% mắc
bệnh chán chường, thậm chí có người đã có ý định tự tử. - 51 % bị hư hại ở
não, kết quả này có thể đọc được qua ảnh chụp cộng hưởng từ (MRI) não của họ.
Tin này được công bố trên tạp chí Annals of Thoracic Surgery. Như vậy, mổ
bắc cầu động mạch vành cũng không phải là một biện pháp hoàn toàn lý tưởng,
phải không quý vị ? 6. Đông y điều trị toàn diện và hiệu quả hơn Tây y :Quan niệm và phương pháp điều trị bệnh này của Đông y là toàn diện
hơn Tây y do đó hiệu quả điều trị của thuốc Đông y cũng cao hơn nhiều so với
Tây y: Như trên đã nói :Trong cơ thể con người, để máu về các nội tạng , lên
não và ra tứ chi tốt thì “máu phải đủ,tim phải khỏe và các mạch máu phải thông
suốt”.Đó là điều cốt lõi trong phép chữa trị này. Có thể hiện nay quý vị cùng
các bạn chưa thấy sách vở nào nói tới điều này, nhưng trong tương lai điều đó
phải được khẳng định.Trong 3 yếu tố quan trọng đó thì hiện nay Tây y chỉ mới tập
trung giải quyết động mạch vành còn việc tăng cường lượng máu cho cơ thể và
phục hồi chức năng của tim thì còn chưa được quan tâm. Khi điều trị cho những
bệnh nhân mạch vành bị thiếu máu trầm trọng, Tây y phải truyền máu cho bệnh
nhân, thử hỏi sau năm, bảy ngày bệnh nhân tiêu thụ hêt lượng máu đó thì lại
truyền tiếp sao ? Và cứ truyền như thế cho hết đời sao? Rõ ràng điều trị bằng
Đông y toàn diện và hiệu quả hơn nhiều . 7- Đông y có thể kết hợp cùng một bài thuốc, một thời gian mà chữa được
nhiều bệnh : Tôi nói rằng Tây
y đang mở ra một công nghệ đặt stent: này nhé ,máu không về tim được vì tắc
nghẽn ở động mạch vành : đặt stent vào đó; máu không lên não được vì tắc nghẽn
ở động mạch cảnh : đặt stent vào đó; máu không xuống được chi vì tắc nghẽn ở
đông mạch chi: đặt stent vào đó; máu không về được dương vật gây nên bệnh liệt
dương: đặt stent vào đó v.v… Với Đông y tất cả những trường hợp đó đều được
giải quyết chung bằng một bài thuốc . Một mũi tên trúng nhiều đích. Rõ ràng vừa
nhanh gọn, hiệu quả mà ít tốn kém hơn Tây y rất nhiều. Ngoài ra điều đó còn phù
hợp cho bệnh nhân tim mạch, nhất là các bệnh nhân cao tuổi vì ở các bệnh nhân
này tới điều trị thường mang trên mình nhiều bệnh mạn tính,ít khi chỉ có một
bệnh.
.8- Việc điều trị bằng Đông y dễ thực hiện hơn nhiều so với đặt Stent: Vì đặt Stent chỉ có thể thực hiện được ở
những bệnh viện lớn, cần phải có máy móc hiện đại, cần bác sỹ chuyên ngành, nên
ở các tỉnh lẻ ,vùng sâu ,vùng xa sẽ gặp khó khăn ,còn điều trị bằng đông y thì
có thể thực hiện được ở bất cứ nơi đâu có nhu cầu.Trong nhiều năm qua, tôi đã
điều trị cho nhiều bệnh nhân ở nhiều vùng, miền của nước ta,cũng như ở nước
ngoài, gần thì điều trị trực tiếp, xa thì gửi thuốc cho họ đều đạt kết quả tốt.
Từ Sài Gòn, tôi có thể gửi thuốc ra Hà Nội, Lạng Sơn, Hải Phòng, Huế, Đà Nẵng,
xuống Cần Thơ, Cà Mau và cả sang Mỹ, Pháp, Canađa, Úc không có gì khó khăn.
. 9- Về mặt dự phòng và chữa trị sớm Đông y lợi thế hơn Tây y : Mặc dù nhiều hãng dược tên tuổi trên thế
giới đã đầu tư nhiều cho nghiên cứu thuốc về tim mạch- nhất là các thuốc điều
trị mạch vành,nhưng cho tới nay vẫn chưa có thuốc đặc hiệu. Còn đặt stent thì
chỉ thực hiện khi bị tắc nghẽn từ 70% trở lên, điều đó chứng tỏ điều trị dự
phòng bằng Tây y là rất khó khăn. Mặt khác, việc phát hiện sớm bệnh mạch vành
như trên đã nói với Tây y là rất hạn chế , nên không thể điều trị sớm được. Với
Đông y thì việc phát hiện và điều trị sớm BMV được thực hiện một cách dễ dàng
và có hiệu quả cao hơn rất nhiều so với thuốc Tây y. Ngày nay các chuyên gia y
tế cho rằng: “Bệnh tim-mạch vành là nguyên nhân tử vong duy
nhất mà phần lớn số trường hợp đều có thể phòng ngừa”.Nghĩa là khi phát hiện ra BMV và TMN mà ta chủ động, tích cực
điều trị sớm thì đa số trường hợp có thể tránh được xảy ra nhồi máu cơ tim,
nhồi máu não dẫn tới tử vong. Cũng trên cơ sở đó mà người ta chọn hướng chính,
hướng điều trị tích cực và cho hiệu quả cao nhất của BMV và TMN là điều trị dự
phòng, đẻ ngăn ngừa không xảy ra trầm trọng, nguy hiểm tới tính mạng của bệnh
nhân; vì tới khi bị nhồi máu cơ tim và tai biến mạch máu não mới cấp cứu thì
hiệu quả điều trị sẽ rất thấp mà chi phí điều trị lại tăng vọt lên rất
cao.
10- Bài thuốc đông y của chúng tôi còn có tác dụng chống lão hóa: nó không
chỉ giúp bệnh nhân có trái tim tươi khỏe, mà còn làm cho bệnh nhân trẻ, đẹp và
sống thọ hơn . Từ lâu, tôi đã quan tâm
tới vấn đề đi tìm một bài thuốc chống lão hóa, giúp cho con người khỏe, trẻ và
đẹp hơn.Tôi đã bỏ nhiều thời gian để nghiên cứu các giáo trình về lão khoa cả
trong nước và quốc tế. Mặc dù các quan điểm cũng chưa hoàn toàn thống nhất với
nhau nhưng có thể tìm được những điểm chung sau: Các nghiên cứu đều cho
rằng: khi tuổi tác người ta tăng lên thì các cơ quan trong cơ thể- nhất là nội
tạng- sẽ suy giảm chức năng. Nhưng sự suy giảm đó sẽ tăng nhanh hơn nhiều khi
các cơ quan bị bỏ đói, tức là khi lượng máu đưa tới nuôi dưỡng các cơ quan
trong cơ thể bị thiếu hụt. Khi các cơ quan suy yếu thì sức khỏe toàn thân sẽ
suy yếu theo, khi đó trông người ta sẽ già và xấu đi nhiều. Giáo sư, bác sĩ Robert
Critol tại Đại học y Paris, trong tác phẩm Trẻ mãi không già của mình cũng đã
viết: “người ta xác định tuổi sinh học của mỗi người căn cứ theo tình trạng
động mạch của người đó”. Ông viết tiếp: đó là một phát biểu đúng đắn, vì rằng
các động mạch là con đường cung cấp máu tới nuôi dưỡng mọi cơ quan, bộ phận
trong cơ thể con người. Nếu một người 70 tuổi mà có các động mạch thông thoáng,
máu được cung cấp để nuôi dưỡng các cơ quan một cách đầy đủ, thì trông người đó
khỏe trẻ như mới 60 tuổi, người ta nói người đó có tuổi sinh học là 60, trẻ hơn
tuổi đời 10 tuổi. Ngược lại nếu một người 50 tuổi mà có các động mạch tắc nghẽn
thì máu đi nuôi các cơ quan, bộ phận sẽ bị thiếu hụt, khi đó trông anh ta sẽ
già đi như người 60 tuổi, người đó có tuổi sinh học là 60, già hơn tuổi đời tới
10 tuổi. Trên cơ sở đó có thể đề
xuất một phương pháp làm cho người ta khỏe, trẻ và đẹp hơn bằng cách cung cấp
máu đầy đủ hơn cho các cơ quan- nhất là các cơ quan nội tạng- trong cơ thể.Về
lý thuyết, dễ dàng thừa nhận phương pháp trên, nhưng trong thực tế, để thực
hiện được điều trên là một việc cực kỳ khó khăn đối với nền y học hiện nay. Thế tại sao bài thuốc
của chúng tôi lại có tác dụng chống lão hóa ? Vì như trên đã nói, bài thuốc của
chúng tôi nhằm giải quyết ba vấn đề là “nước đủ, bơm khỏe và vòi thông”.Nước đủ
tức là tăng lượng máu để nuôi dưỡng cơ thể một cách đầy đủ hơn, bơm khỏe là
phục hồi chức năng tim để nó bơm máu đi khắp cơ thể được tốt hơn, vòi thông là
làm thông các động, tĩnh mạch trong toàn thân. Khi đó mọi cơ quan trong cơ thể
đều đươc tăng cường lượng máu tới nuôi dưỡng,vì thế các chức năng của nó đều
được hồi phục, kết quả là sức khỏe toàn thân sẽ được nâng lên, trông người ta
sẽ khỏe, trẻ và đẹp hơn, dĩ nhiên tuổi thọ nhờ đó cũng được tăng cường. Nói khỏe ở đây bao gồm khỏe
về thể lực, khỏe về tâm hồn, khỏe về tình dục, khỏe về trí tuệ, khỏe về giọng
nói (năm trong một); nói đẹp là đẹp về dáng vóc, về làn da, mái tóc. Kết hợp các quan điểm
của Đông y chúng ta càng thấy rõ hơn điều đó: Đông y cho rằng muốn phục hồi
được sự trẻ trung, xinh đẹp cần phải đi từ bên trong, từ việc củng cố chức năng
các nội tạng, chứ không thể chỉ bôi ngoài bằng các loại kem và mỹ phẩm mà được. Người già thường bị lưng
còng, răng rụng, tai ù, tai điếc, tiểu đêm nhiều, vì sao? Đông y cho rằng “Thận
chủ cốt và khai khiếu tại nhĩ, tiền âm và hậu âm”. Xương cốt trong cơ thể ở đâu
cũng do thận phụ trách nên khi về già, thận suy giảm chức năng thì cấu trúc
xương sẽ suy yếu theo, dẫn tới lưng còng, răng đau, răng rụng, mật độ xương
giảm thành ra loãng xương…Thận thể hiện ra ngoài qua tai, đường tiểu và đại
tiện, nay thận yếu thì tai lười nghe, tàng giữ kém nên tiểu đêm nhiều. Khi động
mạch đưa máu về thận được mở rộng, lượng máu về nuôi thận được tăng cường, chức
năng thận được hồi phục thì các hiện tượng trên được giảm hẳn, không chỉ thế,
nhiều bệnh tật khác cũng đội nón ra đi vì “ mọi hư tổn trong cơ thể đều có gốc
ở thận”(theo nội kinh). Trong các cơ quan ở phía
ngoài cơ thể thì mắt là già đầu tiên: khi người ta mới ngoài 40 tuổi, các cơ
quan khác đều khỏe nhưng sức nhìn của mắt đã bắt đầu kém, cần phải đeo kính
rồi. Gần đây người ta phát hiện ra trong các cơ quan nội tạng thì gan suy giảm
chức năng đầu tiên, vì gan chỉ bằng một phần bảy mươi lăm trọng lượng cơ thể
nhưng nó đảm đương trên 500 chức năng. Vậy là gan kém thì mắt mờ, điều này phù
hợp với quan điểm của Đông y“can khai khiếu tại mục”. Đưa máu về nuôi gan tốt
hơn thì mắt sẽ trẻ lại, trông mắt sẽ có hồn hơn. Tỳ chủ vận hóa: khi tuổi
tác tăng lên, chức năng vận hóa của tỳ giảm, những thứ cần đào thải nay không
đào thải nổi , làm cho cơ thể tăng trọng, da chùng, cơ nhão và làm gia tăng các mô mỡ
nơi bụng dưới, cơ mông, đùi và bắp tay,đồng thời làm trầm trọng thêm các nếp nhăn
biểu cảm nơi đuôi mắt, khóe miệng, rãnh mũi má…Khi phục hồi tốt chức năng tỳ thì
cơ bắp sẽ săn chắc, dáng dấp người ta sẽ thon gọn hơn. Khi máu cung cấp đầy đủ
cho các cơ quan thì khỏe về thể lực, khỏe về tâm hồn là điều dễ hiểu, nhưng tại sao
tình dục lại khỏe được? Bởi vì, theo Hải Thượng Lãn Ông thì “khi tinh huyết về nuôi
các tạng ngày càng đầy đủ thì sức khỏe người ta tăng lên, khi đó không cần làm cho cường
dương mà dương cũng tự cường”; mặt khác , ngày nay các nghiên cứu đều chỉ ra
rằng khi máu về nuôi dưỡng cơ quan sinh dục bị giảm sút thì hoạt động tình dục ở cả
hai giới đều suy giảm. Nay động mạch dẫn máu về đó được khai mở, lượng máu về nuôi
dưỡng bộ phận sinh dục được tăng cường thì chức năng sinh lý tình dục sẽ được hồi
phục, ham muốn tình dục ở cả hai phái đều tăng lên, ái ân vợ chồng càng nồng thắm
hơn. Giáo sư Robert Critol cũng viết:” Những tiến bộ gần đây của sinh học thần kinh
còn chỉ ra rằng việc duy trì ngọn lửa ái ân là điều cốt yếu để sống khỏe, sống vui và
là một phương cách cải lão hoàn đồng khá công hiệu”. Về trí tuệ: đông y cho
rằng “tâm chủ thần minh”.”Tạng tâm” bao gồm tim và mạch máu- tức là tim và hệ
thống động mạch và tĩnh mạch. Rất nhiều thầy Đông y, kể cả các giảng viên ở khoa Đông y, các trường Đại học Y cũng không hiểu đầy đủ nghĩa của "Tạng Tâm". Khi tim yếu và các động mạch dẫn máu lên não bị
tắc, nghẽn thì lượng máu lên nuôi não bị thiếu, chức năng não sẽ bị suy giảm,
trí nhớ vì thế cũng suy giảm luôn, làm cho người ta hay quên; nếu máu thiếu
nhiều và thường xuyên thì người ta trở nên lú lẫn ( hội chứng Alzheimer ).
Nay uống thuốc vào làm cho tim khỏe hơn, các động mạch não thông suốt hơn thì
lượng máu lên não sẽ được tăng cường, các chức năng não sẽ được hồi phục, do đó
thần trí con người sẽ minh mẫn hơn. Những người bị BMV nặng thường phải đặt stent ở cả trong tm và cả 2 động mạch cảnh ở 2 bên cổ là vì vậy. Về giọng nói : Đông y
cho rằng “phế chủ khí, phế chủ thanh âm”. Khi phổi yếu, thì hơi thở ngắn, tiếng
nói nghe yếu ớt, thường mất hết phần trầm. Khi đưa máu về nuôi phổi đầy đủ hơn,
phổi sẽ khỏe lên, thì tiêng nói trở nên trầm ấm, mạnh mẽ hơn. Ai sành nghe nhạc, đều nhận thấy âm trầm mới là âm trụ vững và vang xa, trong bộ gõ
trống đại bao giờ cũng được chú trọng hơn; trong phòng nghe nhạc loa bass bao
giờ cũng được đầu tư nhiều hơn; trong các loại đàn, dây bass hay bao giờ cũng
có giá đắt nhất. Với các cây đàn piano cơ, ta thấy chất lượng càng tốt thì kích thước đàn càng lớn, để tạo ra âm thanh trầm ấm và mượt mà hơn. Ngày nay, các piano điện đang sử dụng các vi mạch để tạo ra âm thanh ngày càng hay để theo kịp piano cơ nhưng với kích thước gọn nhẹ hơn nhiều. Tuy nhiên phổ giá của piano cũng quá đa dạng, có chiếc mươi lăm triệu, có chiếc Kawai RX-6 gần 500 triệu, có chiếc Stein Way gần vài tỷ đồng. Âm thanh của con người cũng như tiếng đàn vậy, rất phong phú và đa dạng. Tôi có 12 năm giảng dạy ở trường Đại học Văn hóa Quân đội nên rất hiểu về " Cơ sở Vật lý của âm thanh". Trong chữa bệnh các thầy thuốc giỏi nghe giọng nói của bệnh
nhân cũng đoán được sức khỏe của họ thay đổi như thế nào rồi. Nói về sắc đẹp, người ta
quan tâm nhiều tới hai yế tố cơ bản là làn da, mái tóc. Đông y cho rằng tâm
vinh nhuận ra da mặt và phế chủ bì mao: nếu tâm suy yếu thì sắc mặt mất hồng
nhuận và chuyển sang xám tối hoặc tím tái, nay máu về nuôi tim đầy đủ thì máu
lên não cũng được tăng cường, sắc mặt sẽ tươi tắn, hồng nhuận hơn. Phế yếu thì
da mặt khô, xạm tối, nhiều nếp nhăn, không sáng bóng, mịn màng. Nay máu về nuôi
phế đầy đủ hơn thì da sẽ sáng bóng, nếp nhăn giảm đi nên trông da mịn màng hơn,
bắt mắt hơn. Làn da còn có một vai trò đặc biệt trong việc tăng thêm niềm khoái
lạc trong ái ân, thông qua các tế bào thần kinh xúc giác. Tiếp xúc với một làn
da trắng hồng, mềm mịn, tươi mát chắc chắn niềm khoái lạc trong ái ân sẽ tăng
lên gấp bội…Vì vậy mà trong chăm sóc sắc đẹp cho phụ nữ, làn da thường được
chọn “ưu tiên số một” . Sách cũng ghi phế yếu
thì tóc khô xơ xác, tóc chẻ, dễ rụng, sợi tóc không óng ả, mềm mượt, nay phế
khỏe lên thì tóc trông xanh hơn, óng ả, mềm mượt hơn…Một điều cũng ít người
biết về tóc là sợi tóc được cấu tạo từ các tế bào sừng, đốt lên cháy mùi khét
lẹt, nhưng đó không phải là sợi đặc; khi cắt ngang sợi tóc và quan sát dưới
kính hiển vi điện tử, người ta phát hiện ra rằng sợi tóc được cấu tạo bởi nhiều
ống dẹt , chạy dọc theo sợi tóc .Khi máu lên não bị thiếu thì các ống tóc bị bỏ
đói, trở nên xơ xác, khô cứng, dễ gãy, dễ rụng. Còn khi máu lên não đầy đủ thì
các ống tóc được bơm đầy khí huyết, sợi tóc sẽ trở nên mềm mượt, óng ả, tươi
xanh đầy sức sống. Sở hữu một làn da trắng
hồng, tươi sáng, mịn màng cùng một mái tóc óng ả, mềm mượt cho ánh mắt ai nhìn
phải đắm đuối, ngất ngây chắc quí vị càng hài lòng hơn với bài thuốc của chúng
tôi. Với một dáng người thon
thả, các cơ bắp săn chắc, động tác nhanh gọn, ánh mắt có hồn, tư duy mạch lạc,
da tóc tươi mới chắc chắn trông bạn sẽ trẻ trung, linh lợi hơn trước khi điêu
trị rất nhiều. Như vậy có thể khẳng
định bài thuốc của chúng tôi có tác dụng chống lão hóa , nếu người thân của bạn
đã điều trị thuốc của chúng tôi vài ba tháng, chắc chắn bạn sẽ thấy họ khỏe,
trẻ và đẹp hẳn ra, mặc dù so với công nghệ làm đẹp, số tiền đó chẳng đáng là
bao. Cũng vì lẽ đó, chúng tôi có thể có cơ hội phục hồi tuổi xuân cho những ai
ngoài tuổi 40, khi mắt đã đòi đeo kinh, đuôi mắt bắt đầu xuất hiện các nếp
nhăn, mái tóc xanh đã bắt đầu điểm bạc, sinh lý tình dục đã bắt đầu ngã bóng chiều
xuân, trên bảo mà dưới chẳng buồn nghe… 11- Yếu tố di truyền trong bệnh mạch vành chiếm tỉ lệ khác cao, để khắc phục
tồn tại này chỉ có Đông y mới làm được: Về nguyên nhân thiếu máu cơ tim và thiếu máu não, các chuyên gia
cho rằng chủ yếu là do xơ vữa và huyết khối nhưng qua thực tế khám và điều trị
cho nhiều bệnh nhân chúng tôi thấy rằng, di truyền mới là yếu tố hàng đầu , khi
bố mẹ bị bệnh mạch vành thì con cái rất dễ bị, đặc biệt khi bà mẹ bị thì các
con gái khó lòng tránh khỏi. Nhiều gia đình cả ông bà, bố mẹ, con cháu đều bị
BMV.Tôi đã khám cho hàng trăm cháu bé từ 5 đến 10 tuổi, phát hiện ra các cháu
bị BMV, rõ ràng không thể bảo các cháu bị xơ vữa hay huyết khối được, và kiểm
tra bố mẹ các cháu thì thấy cháu nào cũng có bố hoặc mẹ hoặc cả bố mẹ bị BMV.
Vì thế trong điều trị không thể bỏ qua yếu tố này. Khi đó cần phải bổ mạnh vào
thận để phục hồi tiên thiên, cho tới nay thì thuốc tây y chưa thể làm được điều
đó, chỉ có Đông y là có thế mạnh về mặt này mà thôi. 12-Hầu hết các bệnh nhân mạch vành đều bị đau dạ dày, để điều trị cùng lúc 2
bệnh đó Đông y có lợi thế hơn tây y nhiều: trong Đông y khi điều trị ngoài việc điều trị cho tạng phụ
bị bệnh cần phải xem xét các tạng phủ liên qua khác để kết hợp điều trị. Về lý
thuyết dựa theo ngũ hành, ta thấy tâm hoả sinh tì thổ, nên khi tâm( gồm tim và các
huyết mạch) bị bệnh thì tì sẽ bị ảnh hưởng, mà tì bị ảnh hưởng thì vị ( dạ dày)
là phủ của tì ắt phải đau yếu. Trên thực tế lâm sàng, tôi thấy rằng một trăm
bệnh nhân bị bệnh mạch vành nặng thì có ít nhất 95 bệnh nhân bị đau dạ dày. Tây
y vẫn điều trị hai bệnh này độc lập, còn các thầy thuốc Đông y thì đã phát hiện
và kết hợp điều trị hai bệnh này khá sớm: Từ thời Tam Quốc , thần y Hoa Đà
(141-208) đã có bài thuốc chữa “ Tâm Phúc quặn đau”, “Tâm Vị khí thống”; đến
thời Kim Nguyên, Lý Đông Viên(1180-1251) trong Tỳ Vị luận và Lan Thất bí tàng
cũng bàn nhiều về quan hệ này; tới cuối đời Minh, Phó Thanh Chủ (1607-1684)
trong Nam Nữ khoa đã dành hẳn chương 19 Tâm Phúc thống để bàn về đau tim, đau
bụng… Để điều trị kết hợp bệnh mạch vành và đau dạ dày thì Đông y sẽ cho hiệu
quả cao hơn Tây y. Qua 12 điều trên chúng
ta thấy rằng điều trị bệnh mạch vành và thiếu máu não bằng đông y có nhiều ưu
việt hơn hẳn so với Tây y. Có lẽ khi đọc bài này
quí vị nghĩ rằng tôi đã ưu ái Đông y mà chê Tây y chăng ? Hoàn toàn không phải
như vậy, bởi lẽ Đông y và Tây y đều là sản phẩm của trí tuệ nhân loại, phải qua
hàng trăm hàng ngàn năm mới hình thành để chăm lo sức khoẻ cho con người, cả
hai trường phải cần phải được trân trọng như nhau. Mặt khác, làm khoa học thì
phải khách quan, nếu không khách quan thì còn gọi gì là khoa học. Nhưng ở đây
với bệnh mạch vành chúng tôi thấy nếu chữa trị sớm và chủ động bằng Đông y thì
có nhiều lợi thế hơn so với Tây y, còn khi quý vị bị bệnh nặng cần phải cấp cứu
thì tôi sẽ khuyên mọi người sớm đến với Tây y; còn nếu quí vị cần chữa thoát vị
đĩa đệm, cột sống thì tôi không khuyên quý vị đến với Đông hay Tây y mà mời quý
vị đến với trường phái không dùng thuốc, là Tác Động Cột Sống sẽ cho kết quả tốt
hơn. Tuy nhiên, trong thực tế
tuỳ điều kiện, hoàn cảnh cụ thể và tình hình bệnh lý của bệnh nhân mà quyết
định nên lựa chọn phương pháp nào: hoặc Đông y, hoặc Tây y hoặc kết hợp 2
phương pháp để hiệu quả điều trị ngày một tốt hơn, chăm sóc sức khoẻ mọi người
ngày một đầy đủ hơn. Nếu phát hiện BMV và TMN sớm và điều trị tích cực, chủ
động bằng Đông y đồng thời điều chỉnh lối sống thích hợp (chế độ làm việc,ăn,
nghỉ hợp lí, tăng cường tập luyện, điều chỉnh tâm lý hài hoà …) thì quý vị sẽ
không phải đặt Stent như tôi đã nói ở tên bài. Nhưng thường bệnh này ít người
được phát hiện sớm hoặc nếu được phát hiện sớm thì cũng ít người chủ động, tích
cực điều trị, phải tới khi bị nhồi máu cơ tim cấp hoặc TBMMN thì mọi người mới
cuống lên, khi đó xin mời quý vị hãy nhanh tay cấp cứu tới các khoa tim mạch
của các bệnh viện, vì để chậm phút nào sẽ tăng nguy cơ cho bệnh nhân phút đó.
Sau khi qua cơn nguy kịch, quý vị dùng thuốc Đông y để khắc phục các di chứng
như khó nói,méo mồm, lệch mắt, chân tay hạn chế cử động v.v...thì sẽ cho hiệu
quả tốt hơn. Có lẽ còn ít người biết
rằng hiện nay cả thế giới đang có một trào lưu-tôi nhắc lại là một trào lưu
nhé-quay về nghiên cứu và điều trị Đông y, trong đó nước Mỹ đang dẫn đầu trào
lưu này .Hiện tại nước Mỹ có 126 trường Đại học Y thì 98 trường đã có khoa Đông
Y, mà khoa Đông y của họ lớn hơn hẳn khoa Đông y của ta cả về nội dung, chương
trình giảng dạy lẫn trang thiết bị máy móc . Chúng ta vẫn tự hào ta gần đất tổ
Đông Y là Trung Quốc nên đông y của ta là mạnh lắm. Sự thực không phải như vậy
đâu, mãi tới mấy năm gần đây ở các trường Đại học Y của nước ta mới có khoa
Đông y còn trước đó chỉ là tổ bộ môn Đông y thôi, và hiện nay ở các trường y
cũng chủ yếu là giảng dạy Tây y, Đông y chỉ học chữa trị bằng thảo dược và châm
cứu bấm huyệt thôi, còn ở Mỹ trong chương trình của họ tôi đọc thấy họ dạy cả
Yoga, cả Vi lượng đồng căn, cả Liệu pháp thay thế nữa v.v…Cả nước ta hiện nay
chỉ có một trường được coi là Đại học Đông y , đó là HỌC VIỆN Y DƯỢC HỌC CỔ
TRUYỀN VIỆT NAM do PGS-TS Trương Việt Bình làm Hiệu trưởng , đóng tại vị trí
trường Y học Dân tộc Tuệ Tĩnh trước đây ở Hà Nội. Còn nhớ hồi đầu những năm 90,
tôi về học thêm phương pháp chữa bệnh bằng TÁC ĐỘNG CỘT SỐNG ở đó, có nhiều
người còn tác động Bộ Y Tế bỏ luôn trường Tuệ Tĩnh vì họ cho rằng đã tới lúc
không cần Đông y nữa. Lớp của tôi rất giận về quan điểm sai lầm đó, nên quyết
tâm vận động hành lang để thành lập được trường Đại học Đông y, đã cố mời được
Bộ trưởng Y tế lúc bấy giờ là GS-TS Nguyễn Trọng Nhân xuống thăm trường, và tác
động bằng nhiều con đường khác để không dẹp trường Tuệ Tĩnh. Nhưng rồi phải bao
thề hệ học sinh đi qua, phải bao người hao tổn công sức, trí tuệ tác động, mãi
tới năm 2005 Học viện Y Dược học cổ truyền mới được ra đời. Vừa rồi tôi có việc
ra Bộ Y Tế, nghe các anh nói lãnh đạo Bộ đang định nâng Vụ Y học cổ truyền lên
Cục Y học cổ truyền, đó cũng là một tín hiệu mừng. Ngày 31/11/2010, Thủ tướng
Chính phủ vừa ký Quyết định số 2166/QĐ-TTg, ban hành Kế hoạch hành động của
Chính phủ về phát triển Y Dược học cổ truyền Việt Nam đến năm 2020.Mục tiêu
chung của kế hoạch nhằm hiện đại hóa và phát triển mạnh Y Dược Học Cổ Truyền
trong bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân, củng cố và phát triển tổ
chức, mạng lưới y, dược cổ truyền. Đó là một tin mừng, tuy nhiên vẫn còn nằm
trên giấy tờ, chúng ta còn phải phấn đấu nhiều hơn nữa may ra mới thực hiện tốt
được kế hoạch đó.
VIII. Bệnh mạch vành là nguyên nhân của nhiều bệnh khó chữa trong cơ thể
Y
học là một môn khoa học nghiên cứu và chữa trị các bệnh, nhằm chăm sóc sức khỏe
và sắc đẹp cho con người. Khác với các máy móc cơ khí, điện tử… mà ta thường
gặp hàng ngày, con người là một cổ máy sống mà thượng đế đã tạo ra trên thế
gian này, nên việc chữa trị cho con người khó khăn hơn rất nhiều, vì phải chẩn
đoán và chữa trị trên một cơ thể nguyên vẹn, không được tháo rời rồi lắp ráp
lại. Tôi từ khi nhận ra giá trị của lý thuyết “tập trung, khác biệt và chuyên
sâu”, đã tập trung chữa trị những bệnh khó trên con người. Một câu hỏi lớn luôn
bám theo tôi là: tại sao các bệnh đó lại khó chữa trị thế, liệu giữa chúng có
mối quan hệ nào không? Và rồi, sau nhiều năm tháng nghiên cứu: phân tích, so
sánh, tổng hợp và chữa trị, tôi đã nhận ra rằng đa số các bệnh khó đều có
nguyên nhân từ bệnh mạch vành , tức là bệnh thiếu máu và các mạch máu đang bị
tắc, nghẽn.
Một
vị tổng giám đốc Tổ chức y tế thế giới cũng nói rằng: “Chúng ta cứ tưởng rằng
chúng ta đã hiểu rất kỹ về con người và về bệnh tật của con người, nhưng thực
ra những hiểu biết của chúng ta về con người và bệnh tật của con người chỉ là
một nhỏ bé, giống như phần nổi của một tảng băng mà thôi”. Càng nghĩ, càng thấy
ý kiến đó là hoàn chính xác, vì rằng có những căn bệnh đã phát hiện ra hàng mấy
trăm năm, thậm chí hàng ngàn năm nhưng tới nay vẫn chưa tìm ra bài thuốc đặc
hiệu để chữa trị như bệnh mạch vành, bệnh gout, bệnh trĩ, bệnh hen suyễn, bệnh
tiểu đường, bệnh eczema v.v…mặc dù các nhà y, dược học trên toàn thế giới đã bỏ
rất nhiều công sức, tiền bạc để nghiên cứu chúng.
Thú
thật khi lựa chọn đi vào các đề tài khó này tôi nghĩ mình đang”húc đầu vào đá”.
Nhưng may mắn khi đó môn học NLP- một môn học về phát huy năng lực bản thân- đã
đến với tôi. Đây là một môn học hấp dẫn và bổ ích nhất trong cuộc đời so với
tất cả những gì tôi đã học, đã nghiên cứu trong hơn 40 năm đứng trên giảng
đường. NLP là viết tắt của 3 từ Neuro-Lingustic Programing, dịch sang tiếng
Việt là Lập trình Ngôn ngữ Tư duy, nó được phát minh bởi 2 nhà khoa học người
Mỹ làRichard Bandler và John Grindervào đầu những năm 1970. Hơn 40 năm qua kể từ khi được hình thành
cho đến nay, NLP đã được ứng dụng trong rất nhiều lĩnh vực khác nhau trong cuộc
sống để mang lại thành công ngoài sức tưởng tượng cho rất nhiều người trên toàn
thế giới. Các chuyên gia cho rằng, các tổng thống Mỹ như Bill Clinton,
Barack Obama đã nghiên cứ và vận dụng rất thành công NLP trong các bài phát
biểu tranh cử tổng thống cũng như trong quá trình lãnh đạo nước Mỹ.Vận động viênquần vợt nữ người Mỹ, Serena Jameka Williams (xếp hạng số 1 thế giới), người
đã giành được 20 danh hiệuGrand Slam đơn, vượt qua cả kỷ lục của 2 huyền thoại
quần vợt là Chris Evert và Martina Navartilova cũng đã được huấn luyện bởi bậc
thầy NLP số một thế giới là Antony Robin.
Ở Việt Nam, môn học này mới được thâm nhập trong những năm gần đây bằng con
đường phi chính phủ. Tôi may mắn được đọc “ Đánh thức con người phi thường
trong bạn” của Antony Bin từ năm 2003, rồi sau đó được học T.
Harv Eker, Adam Khoo cùng nhiều
bậc thầy nổi tiếng khác về NLP nên mới có đủ niềm tin và năng lượng để “vượt qua nỗi sợ hãi” và dám
bước những “bước đi ban đầu” vào lĩnh vực nghiên cứu các bệnh khó chữa trị này.
Có được những kết quả này , tôi cũng không bao giờ quên ơn một người, đó là
giáo sư Đặng Văn Chung. Ông là “ông trùm” về nội khoa của Việt Nam. Ông cũng là
người đầu tiên xây dựng nên ngành tim mạch học Việt Nam mà sau này trở thành
Viện tim mạch quốc gia. Ông nghiên cứu về tim mạch rất sơm, từ 1940 ông đã thi
đỗ vào nội trú ở bệnh viện Bạch Mai với luận văn “Giãn động mạch phổi tiên
phát”. Trong lễ kỷ niệm 100 năm ngày sinh của ông, Giáo sư,
tiến sĩ Ngô Quý Châu- trưởng bộ môn nội tổng hợp Đại học Y Hà Nội, phó giám đốc
chuyên môn bệnh viện Bạch Mai đã viết “ GS Đặng Văn Chung là người thầy lớn của
nhiều thế hệ thầy thuốc Việt Nam, là nhà sư phạm kiệt xuất, là người thầy thuốc
lâm sàng đại tài; giản dị, gần gũi, tận tụy và là tấm gương y đức sáng
ngời”. Đã hơn 30 năm rồi, tôi vẫn thuộc lòng lời dạy của giáo sư đối với
tôi: “ Con nhớ trong chữa bệnh phải lấy nội khoa làm chính, chỉ khi nào nội
khoa bế tắc người ta mới cần đến sự can thiệp của ngoại khoa; nói cách khác
trong chữa bệnh, nơi nào đang phải can thiệp ngoại khoa là nơi đó y học đang
gặp bế tắc. Nếu muốn đi sâu vào y học, nếu muốn thỏa sức khám phá của mình, con
hãy đi vào những chỗ đó. Nếu chuyển được một bệnh đang phải chữa bằng ngoại
khoa sang chữa trị thành công bằng nội khoa là một thắng lợi to lớn, vì như thế
sẽ giúp bệnh nhân đỡ tốn kém hơn, lại tránh được rủi ro trong phẩu thuật và cho
một kết quả bền vững hơn. Tuy nhiên đi vào những chỗ đó là khó, rất khó… nhưng
đó là những điểm gút của y học trên toàn thế giới này”. Tôi vô cùng cảm ơn thầy
về lời dạy đó, tôi đã chọn việc chữa trị các bệnh khó làm đích phấn đấu trong
lĩnh vực nghiên cứu y học của mình, nhờ đó mà tới nay tôi đã chữa trị thành
công được nhiều bệnh khó, điều mà trước đây tôi đã nhiều lần nghĩ rằng khó lòng
chiến thắng, khó lòng thành công.
I. "Vai trò của máu đối với các bộ phận trong cơ thể, giống như vai trò của nước đối với sự sống trong vũ trụ": Đây là tuyên ngôn Y học lớn nhất của sự nghiệp nghiên cứu Y khoa của tôi. Việc chữa trị thành công các căn bệnh nguy nan-kể cả ung thư- của tôi đều dựa vào quan điểm này.
Nếu
bạn có một chậu cây cảnh, bạn sẽ quan sát thấy rằng: Khi được tưới nước đầy đủ
thì cây cảnh sẽ phát triển tốt tươi, nếu bạn đi du lịch một tuần mà không nhờ
người tưới bón, khi trở về cây sẽ chậm phát triển hoặc héo rũ, thậm chí cây sẽ
bị chết nếu trời nắng quá.
Nhưng, thật lạ lùng vai trò của nước đối với sự sống đã được phát hiện từ
cổ xưa cũng trùng với quan điểm của khoa học hiện đại ngày nay. Kinh Dịch là
một tác phẩm triết học cổ của Trung Hoa, ra đời cách đây khoảng 3000 năm. Trong
bài ca quyết về thuyết Âm dương- Ngũ hành ra đời từ kinh Dịch có câu: “Thiên
nhất sinh Thủy”. Có nhiều lời bàn về câu này như: Thứ đầu tiên trời sinh ra là
nước, hoặc vạn vật được trời sinh ra thì nước là thứ quan trọng nhất. Đó là
quan điểm cổ xưa. Ngày nay, khoa học hiện đại cũng khẳng định rằng nước là yếu
tố quyết định đối với sự sống. Muốn xem ở trên sao Hỏa, Mặt trăng có sự sống
hay không, trước hết người ta phải khảo sát xem trên đó có nước hay không, nếu
không có nước thì sẽ không tồn tại sự sống trên đó.
Trong
quá trình chữa bệnh, chuyên nghiên cứu về tim mạch và máu cũng như chuyên chữa
trị các bệnh khó chữa trong cơ thể con người, dần dần tôi nhận ra rằng máu đối
với các bộ phận trong cơ thể con người cũng có vai trò quyết định như nước đối
với sự sống. Máu là thức ăn duy nhất của các tế bào. Ở đâu máu được cung cấp
đầy đủ thì các tế bào ở đó sẽ no đủ, bộ phận đó được
phát triển tốt đẹp và phát huy đầy đủ chức năng của nó. Ở đâu thiếu
máu, thì các tế bào ở đó sẽ bị bỏ đói, dẫn tới chức năng của các bộ phận đó sẽ
bị suy giảm và phát sinh ra bệnh tật; máu thiếu càng nhiều bệnh tật phát sinh
càng nặng. Trên cơ sở đó, tôi cho ra rằng để chữa trị các bệnh khó, thì vấn đề
cốt lõi là phải cung cấp đầy đủ máu cho cơ quan hoặc bộ phận đang bị bệnh, khi
đó chức năng của bộ phận sẽ được hồi phục dần và bệnh tật sẽ ra đi. Vận dụng
điều đó vào chữa trị, tôi thấy kết này không chỉ đúng cho một loại bệnh mà gần
như đúng cho tất cả các bệnh khó chữa trị trong cơ thể con người. Chúng ta sẽ
xét lần lượt một số bệnh khó để nhận ra điều trên:
1. Bệnh tiểu đường:
Tiểu
đường hiện nay là một bệnh và khó chữa trị. Các thuốc chữa tiểu đường hiện
nay chủ yếu nhắm cắt cơn nghĩa là nếu uống thuốc thì tiểu đường giảm xuống, nếu
không uống thuốc lượng đường trong máu sẽ tăng lên. Tây y quan niệm rằng nguyên
nhân tiểu đường là do lượng insulin trong cơ thể không có hoặc bị thiếu hụt.
Nhưng tôi lại nhìn thấy rằng, nguyên nhân của tiểu đường là do
chức năng thận bị suy giảm. Ở những người thiếu máu cơ tim, lâu nay Tây y mới
xét liên quan đến máu về tim và máu lên não bị thiếu. Thực ra khi lượng máu
thiếu và các động mạch bị hẹp, thì động mạch đưa máu về thận cũng sẽ bị hẹp làm
cho máu về nuôi thận sẽ bị thiếu, do đó chức năng thận sẽ suy giảm. Đông Y quan
niệm tạng thận là cội nguồn của các tạng phủ trong cơ thể, còn Tây Y thì quan
niệm thận có 2 chức năng chủ yếu là tàng giữ và thanh lọc. Thanh lọc là lọc
những thứ cặn bã và nước dư thừa trong máu ra khỏi cơ thể theo đường tiểu; còn
tàng giữ là giữ lại những chất cần thiết cho cơ thể và đào thải những chất
không cần thiết ra ngoài cũng theo đường tiểu. Vậy tại sao đường là thứ cực kỳ
quan trọng với cơ thể, mà thận lại đào thải đi? Thực ra vấn đề ở đây là do chức
năng thận suy yếu, nên thận không giữ nổi đường ở lại chứ không phải nó có ý
định đào thải đường ra ngoài. Vấn đề cũng giống như tại một vũ trường, có một
nhóm người xông vào phá phách vũ trường, nhưng tại sao bảo vệ không ngăn họ
lại? Vì rằng lực lượng bảo vệ quá yếu; muốn ngăn giữ đám người phá phách đó,
thì cần phải tăng cường lực lượng bảo vệ. Cũng giống như muốn giữ lại lượng
đường cho cơ thể, thì cần phải tăng cường chức năng của thận bằng cách tăng
cường lượng máu về nuôi thận. Mặt khác, theo các tài liệu nước ngoài, các nhà
khoa học cho rằng: hai quả thận chỉ có trọng lượng bằng 0,5%(năm phần nghìn)
trọng lượng cơ thể, nhưng nó lại tiêu thụ 20% lượng máu trong toàn thân, điều
đó chứng tỏ so với các tế bào khác trong cơ thể, thì tế bào thận tiêu thụ lượng
máu gấp 40 lần, điều đó cũng dễ nhận thấy tế bào thận thường dễ bị thiếu máu
nhất, nhưng do chúng ta chưa quan tâm nhiều đến thận nên chưa nhận ra vấn đề đó
thôi. Trong tác phẩm “Lâm Sàng Tim Mạch” của PGS.TS Nguyễn Phú Kháng, ông cũng
nói rằng: “Động mạch thận là một trong những động mạch hay bị tắc nghẽn giống
như động mạch vành” (trang 269). Vậy, nguyên nhân của suy thận cũng chính là
bệnh mạch vành. Dựa trên quan điểm đó, chúng tôi đã chữa bệnh tiểu đường bằng
bài thuốc chữa mạch vành kết hợp với các thuốc bổ thận, kết quả điều trị thành
công rất cao và ổn định hơn nhiều so với dùng thuốc Tây y. Cũng có chuyên gia
cho rằng bệnh tiểu đường biến chứng mới sinh ra bệnh mạch vành, đó là một sự
nhầm lẫn, vì bệnh mạch vành xuất hiện từ khi còn nhỏ, còn
tiểu đường thì mãi mấy chục năm sau mới bị (trừ một số rất ít tiểu đường typ 1
có thể xuất hiện ở trẻ em). Cũng có một lỗi về chuyên môn làm người ta dễ nhầm lẫn điều đó, là phát hiện tiểu
đường thì rất dễ (chỉ cần xét nghiệm lượng đường trong máu- mất ba, bốn chục nghàn là biết), còn
khám để phát hiện ra bệnh mạch vành thì rất khó, và tốn kém. Vì thế đa số bệnh
nhân chỉ biết mình bị tiểu đường mà không hề biết mình bị bệnh mạch vành từ
trước đó rất lâu.
2. Bệnh trĩ: Qua nhiều năm nghiên cứu
và chữa trị bệnh trĩ, tôi đã nhậ ra rằng nguyên nhân của các bệnh trĩ (nội,
ngoại, hỗn hợp và rò hậu môn) chính là bệnh mạch vành. Điều này đã được phân
tích kỹ trong bài: “Bệnh mạch vành nảy sinh bệnh trĩ”. Trong bài đó tôi đã kết
luận: tất cả bệnh nhân trĩ đều bị bệnh mạch vành và cách chữa bệnh trĩ tốt nhất
là kết hợp thuốc chữa mạch vành và các thuốc cầm máu, tiêu viêm, giảm đau…Tất
cả bệnh nhân trĩ sẽ dễ dàng nhận ra mình bị thiếu máu cơ tim và thiếu máu não
vì thỉnh thoảng vẫn hay bị nhói ở ngực bên trái và đau đầu, hoa mắt, chóng mặt.
3. Bệnh Gút (Gout): Bệnh Gút là
một bệnh hiện nay đang phát triển nhanh ở nước ta. Nhân loại đã phát hiện ra
bệnh này từ 3000 năm trước, nhưng tới nay vân chưa tìm ra thuốc chữa trị đặc
hiệu. Hypocrat gọi Gút là “bệnh của các vua và vua của các bệnh”. Tây y vẫn
thường dùng Colchicin kết hợp Allopurinol (Zyloprim, Aloprim) để chữa trị, nhưng phác đồ này chỉ có giá trị
khi bệnh mới phát, với bệnh đã nặng thì tác dụng không đáng kể. Có thầy thuốc
chích Cortisone thẳng vào khớp, làm thế chỉ cắt được
cơn đau tạm thời, nhưng về sau sẽ rất nguy hiểm vì tác dụng phụ của thuốc.
Chính tôi là một bệnh nhân Gút, đã đi nhiều nơi, nhiều viện chữa trị nhưng
không kết quả. Cuối cùng tôi đã nghiên cứu ra rằng nguyên nhân của bệnh Gút
chính là bệnh mạch vành. Nhờ kết hợp thuốc chữa mạch vành bằng đông y với các
thuốc thảo dược kháng viêm, giảm đau, tiêu sưng tôi đã chữa thành công bệnh Gút
cho mình cùng nhiều người khác. Mời các bạn đọc bài “Bệnh Gút- vua của các
bệnh- sẽ bị tiêu trừ bởi Đông y và các phương pháp chữa bệnh không dùng thuốc”
cùng đăng trong website này.
4. Hở, hẹp van tim: Trong quả tim con
người có 4 vandùng để di chuyển máu theo một chiều, đó là van động
mạch phổi, van động mạch chủ, van hai lá và van ba lá. Trong tự nhiên cũng có
rất nhiều loại van mà chúng ta dễ trông thấy như van xe đạp, van xe máy,van ở
các loại máy bơm, van dẫn nước, các xupap ở động cơ đốt trong v.v…Đặc trưng của
các loại van là dẫn truyền chât lỏng hoặc chất khí theo một chiều, nhưng có
điểm khác biệt ở đây là : các loại van chúng ta thường thấy là các van chết,
tức là van có các phần tử cấu tạo là vô tri, vô giác, còn van tim là van sống,
tức là van có các phần tử cấu tạo là các phần tử sống, đó là các lá thịt. Vì
thế việc thay thế các van tim sẽ khó khăn và tốn kém hơn nhiều. Tôi đã nhận ra
rằng các trường hợp hở, hẹp van tim đều do thiếu máu cơ tim. Sở dĩ như vậy là
vì ở những bệnh nhân thiếu máu cơ tim thì máu tới nuôi van tim chắc chắn sẽ bị
thiếu. Do thiếu dinh dưỡng nên các lá van bằng thịt sẽ bị biến dạng , dẫn tới
hở, hẹp van tim. Vậy thì để chữa hở, hẹp van tim chỉ cần cung cấp đầy
đủ máu cho các lá van, giúp chúng hồi phục lại thì sẽ hết hở, hẹp van hoặc đưa
chúng về mức cho phép. Việc này giống như các lá cây héo rũ vì thiếu nước, nay
được tưới nước thì trở về tươi tốt bình thường. Tôi tham khảo nhiều tài liệu
nước ngoài cũng trùng quan điểm như vậy. Tuy nhiên nói thì dễ vậy nhưng không
phải ai cũng dễ dàng đưa máu về nuôi van tim được. Bằng phương pháp này, tôi đã
chữa cho nhiều bệnh nhân chuẩn bị thay van tim không cần phải phẩu thuật thay
van nữa. Lẽ ra phải mất khoảng 150 triệu, giờ họ chỉ mất mấy triệu thôi mà lại
tránh được rủi ro trong phẩu thuật. Các bạn có thấy thú vị không? 5.
Thoát vị đĩa đệm: Thoát vị đĩa đệm đốt
sống cổ và đốt sống thắt lưng là bệnh hiện nay cũng gặp khá nhiều, gây nên đau
đớn chân tay , thậm chí bị liệt, đi lại, vận động khó khăn. Bệnh ảnh hưởng rất
nhiều tới chất lượng sống cũng như lao động của nhiều người. Với Tây y chữa trị
bệnh này chủ yếu là phẩu thuật. Người ít tiền thì mổ bằng laze mất mười mấy
triệu một đĩa đêm, người nhiều tiền thì mổ bằng sóng radio an toàn và hiệu quả
hơn, mất khoảng 50 triệu một đĩa đệm. Tôi đã có mấy chục năm nghiên cứu và chữa
trị bệnh này. Khoảng hai chục năm trước tôi đã chữa được bệnh này không cần
phẩu thuật bằng các phương pháp Tác động cột sốngvà Diện chẩn; song các phương pháp đó cũng chỉ thích hợp cho
các bệnh nhân gần, những bệnh nhân ở xa thầy thuốc thì không thực hiện
được. Sau này, đi sâu nghiên cứu tôi mới nhận ra rằng các bệnh nhân bị
thoát vị đĩa đệm đều bị thiếu máu cơ tim ( ngoại trừ những trường hợp bị tai
nạn hoặc chấn thương nặng và đột ngột). Có hai cơ sở để nhận ra vấn đề này: một
là, đông y quan niệm “can chủ cân, thận chủ cốt” , khi máu về tim thiếu thì máu
về thận chắc chắn cũng sẽ thiếu, chức năng thận sẽ bị suy giảm làm cho hệ xương
cốt sẽ giảm đi; hai là khi máu trong cơ thể bị thiếu thì lượng máu về nuôi cột
sống sẽ bị thiếu, cột sống vì thế sẽ bị thoái hóa , tới một lúc nào đó nặng hơn
thì sẽ bị thoát vị đĩa đệm. Từ nhận thức đó, tôi đã kết hợp bài thuốc chữa mạch
vành với thuốc chữa xương khớp để chữa thoát vị đĩa đệm, kết quả thật mãn ý.
Hàng trăm ca thoát vị đĩa đệm tìm tới chúng tôi chữa trị trong mấy năm nay đều
thành công. Ông Nguyễn Thanh H ở thôn 3, Gia huynh, Tánh Linh, Bình Thuận bị
thoát vị đĩa đệm 4 đốt sống cổ từ C3 tới C7. Ông vào bệnh viện chấn thương
chỉnh hình TP Hồ Chí Minh để khám và điều trị. Sau khi chụp MRI có kết quả,
giáo sư X bảo “nếu anh muốn mổ an toàn nhât thì mổ bằng sóng radio, nhưng đắt
tiền, 4 đốt phải mất 200 triệu đấy và phải mổ nhiều lần,mỗi lần một đốt thôi,
nhưng tôi không mổ cho anh đâu! Ông hỏi vì sao thưa bác sĩ. “Tôi nghe nhiều
người nói- vị giáo sư tiếp-ở quận 2, có ông thầy Đông y từ Hà Nội vào, chữa
bệnh này rất tốt, vừa an toàn, vừa tốn ít tiền, anh thử tới đó điều trị xem,
nếu không được thì quay lại đây, tôi sẽ lo cho anh”. Con ông H là công an, đã
nhờ các đồng nghiệp tìm ra địa chỉ của tôi. Ông đã tìm tới tôi chữa trị. Tôi
cho ông uống thuốc 3 tháng hết hơn 3 triệu bạc (giá năm 2009), không cần phải
mất 200 triệu nữa, bệnh khỏi gần 5 năm rồi, không thấy tái phát. Ông rất mừng
và đã giới thiệu cho nhiều bn thoát vị đĩa đệm từ Bình Thuận, Thanh Hóa, Hà
Nội, Tây Nguyên tới tôi chữa trị đều thu được kết quả tốt đẹp mà không cần phẩu
thuật.
6. Hội chứng cổ- vai- cánh tay: Trong các đợt đi chữa
bệnh từ thiện ở miền Tây như các tỉnh Tiền Giang, An Giang mới đây, tôi gặp số
bệnh nhân dạng này quá đông, cứ đau cổ, vai, cánh tay, đau đầu, mất ngủ
v.v…Bệnh này thật kỳ quái, chữa rất khó, thuốc Tây thì không ngoài mấy viên
kháng viêm, giảm đau có thành phần corticoid; châm cứu thì lúc đầu đỡ rồi không
đỡ, sau càng châm càng đau (chính hồi chữa ở viện châm cứu Nguyễn Tài Thu Hà
Nội tôi đã nhận ra điều này), thuốc Đông y thì cũng trầy trật không ổn định. Vì
thế khoảng 7 năm trước đây, tôi đã viết đây là bệnh thuộc trang “botay.com”.
Nhưng sau này, càng chữa trị nhiều bệnh mạch vành tôi mới nhận ra rằng gần như
tất cả bệnh nhân bị hội chứng cổ-vai-cánh tay đều bị bệnh mạch vành. Tôi đã
dùng thuốc chữa mạch vành kết hợp thuốc chữa xương khớp để chữa trị cho loại
bệnh này, tất cả đều thành công một cách mỹ mãn. Ở đây xuất hiện một sự nhầm
lẫn của nhiều bác sĩ là họ cho rằng thoái hóa đốt sống cổ đã gây nên hội chứng
cổ-vai-cánh tay, thực chất vấn đề là cả 2 loại bệnh này đều do thiếu máu cơ tim
gây nên chứ không phải bệnh này là nguyên nhân của bệnh kia. Khi dùng thuốc
mạch vành để chữa thì cả 2 bệnh này đều khỏi.
7. Viêm, đau các khớp, hoại tử khớp háng:
Cũng
qua quá trình chữa bệnh mạch vành tôi nhận ra rằng khi máu dẫn truyền tới các
khớp chân tay bị thiếu thì gây ra viêm đau khớp. Ta thường thấy các bệnh nhân
hay bị đau đồng thời ở khớp gối, gót chân và các khớp cổ tay ngón tay, vì người
đó bị bệnh mạch vành nên máu đưa tới chân tay đã bị thiếu hụt mà gây nên viêm
đau các khớp. Dùng thuốc chữa mạch vành để chữa thì các bệnh này đều bị tiêu
trừ. Thực ra, ý này không phải do tôi phát hiện ra, mà từ trong Nội Kinh đã có
câu: “Chữa phong, tiên trị huyết, huyết hành, phong tự diệt”, chỉ vì các thầy
thuốc chưa làm tăng được lượng máu và chưa làm cho máu dẫn truyền một cách lưu
lợi tới các khớp mà chữa bệnh này chưa thành công mà thôi.
Hoại tử khớp háng cũng thuộc bệnh khó chữa. Nếu nặng Tây y thường chọn
phương án phẩu thuật thay khớp háng. Thực ra do máu tới đó bị thiếu, lúc đầu
thường tê mỏi chân, về sau khớp háng bị ăn mòn, khó hồi phục được. Dùng Đông y
tăng cường máu về khớp háng, các khớp sẽ hồi phục lại, dần dần chân sẽ
hết đau, trở về hoạt động bình thường.
8. Lở, ngứa, mày đay,
eczma: Đây là một trong những
bệnh hiện nay y học đang bế tắc. Còn nhớ cách đây mấy năm, có người mời tôi tới
thăm khám cho một bệnh nhân tại Viện Da Liễu. Khi tiếp xúc với các bệnh nhân
tôi hỏi chắc các anh chị vào đây thì được các giáo sư, bác sĩ chữa trị tốt chứ?
Các bệnh nhân vui vẻ trả lời: “Dạ, ở đây các bác sĩ đều gọi bệnh này là bệnh 3
không”. Tôi hỏi “Sao nói vậy”, họ trả lời rằng: “Các bác sĩ bảo rằng bệnh này
không lây, không gây chết người, nhưng chữa cũng không khỏi,nên gọi là bệnh 3
không”. Tôi cười bảo với họ rằng do chữa chưa đúng chỗ mà bệnh chưa khỏi đấy
thôi, còn tôi chữa bệnh này chưa bao giờ không thành công. Một số thầy thuốc
thường cứ thấy ngứa, mề đay, eczema là cho rằng gan bị nhiễm độc cần giải độc ở
gan thì bệnh này mới khỏi. Thực ra, cách làm đó chỉ khỏi những bệnh lở ngứa nhẹ
thôi còn ở các bệnh nặng thì không bao giờ khỏi. Lúc đầu, tôi cũng bế tắc về
bệnh này, nhưng sau nhờ đọc được câu: “Lưu thủy bất hủ, hộ khu bất điều” của
thần y Hoa Đà, tôi mới ngộ ra rằng nước tù đọng, không lưu thông thì sẽ bị
thối, khi ta lội xuống các ao tù, lâu ngày nước không được thay đổi thì sẽ bị
nổi mẩn ngứa khắp cả 2 chân; vậy thì máu trong cơ thể khi không được thông suốt
cũng sẽ gây nên uế tạp làm cho da bị ngứa. Sinh thời, Bác Hồ rất thích câu nói
trên, Bác vẫn dùng câu đó để nhắc nhở cán bộ chiến sĩ rằng nếu được rèn luyện
làm cho khí huyết lưu thông, thì sẽ không bị bệnh, nếu không chịu rèn luyện,
khí huyết ứ trệ, thì sẽ sinh ra bệnh. Điều này cũng trùng với lý thuyết của
Đông Y là: “Thông thì bất thống,thống tắc bất thông”. Từ đó, tôi đã dùng bài
thuốc chữa mạch vành kết hợp vài vị thuốc tiêu viêm, trừ thấp để chữa lở, ngứa, mề đay và eczma thì chưa có ca
nào mà không thành công.
Đây
là một căn bệnh đang gây bế tắc với y học hiện đại trên toàn thế giới. Hiện
bệnh đang đứng thứ tư về nguyên nhân gây tử vong cho con người. Về thực chất
tôi đã nhận ra rằng bệnh này gồm 2 bệnh khó chữa gộp lại là bệnh hen suyễn và
bệnh mạch vành. Các bậc tiền bối về Đông Y gọi bệnh này là “Tâm Phế Mạn”, tức
là bệnh mạn tính liên quan đến tim mạch và phổi. Chữa bệnh này khó là vì hen
suyễn là bệnh cả thế giới đang bế tắc, tạp chí The Lancet – một tạp chí y
học nổi tiếng của Anh – đã viết: “Cho tới nay, hen phế quản vẫn là điều bí ẩn
đối với y học hiện đại (Tây Y)”. Còn bệnh mạch vành, là một bệnh đang phát
triển quá nhanh và gây tử vong lớn nhất cho nhân loại, các thuốc nội khoa chữa
bệnh này còn rất hạn chế. Tôi nhờ may mắn đã chẩn đoán và chữa trị rất thành
công cả 2 loại bệnh này, nên chữa tâm phế mạn là điều không có gì khó khăn. Đã có
hàng trăm bệnh nhân loại này được tôi chữa trị thành công trong những năm qua.
Có một điều cần nói là Tây Y đang gọi bệnh này một cách nhầm lẫn là
“bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính” đây là dịch từ nguyên bản tiếng Anh Chronic
Obstructive Pulmonary Disease (COPD). Nếu hiểu theo định nghĩa về bệnh này của
Tây y thì hoàn toàn không có liên quan gì đến tim mạch cả, và trong cách chữa
của Tây y thì phác đồ chữa bệnh này trùng với phác đồ chữa hen suyễn. Quan niệm
này của Tây y bị nhầm lẫn vì tôi đã khám cho hàng ngàn bệnh nhân loại này, tất
cả đều bao gồm 2 bệnh hen suyễn và bệnh thiếu máu cơ tim.
10 . Yếu sinh lý. Vô sinh, hiếm muộn:
Nhiều
năm chữa vô sinh hiếm muộn, tôi nhận ra rằng: Ở nam giới, nguyên nhân chủ yếu
dẫn đến hiếm muộn là tinh trùng thiếu về số lượng và yếu về chất lượng. Nguyên
nhân dẫn tới điều đó là bệnh nhân bị bệnh mạch vành, trong Nội Kinh cũng đã chỉ
rõ: “Huyết sinh tinh” nay huyết bị thiếu thì làm sao tinh tốt được. Mặt khác, ở
những bệnh nhân bị bệnh mạch vành thì bao giờ máu tới nuôi bộ phận sinh dục
cũng bị thiếu, nên chức năng của bộ máy sinh dục sẽ bị suy giảm, hoạt động sinh
lý bị yếu dẫn tới khả năng thụ thai rất khó. Về phía nữ giới, nguyên nhân dẫn
tới hiếm muộn thì có nhiều như: tắc nghẽn ống dẫn trứng, lạc nội mạc tử cung, chức
năng buồng trứng suy giảm,tử cung đôi… nhưng thường gặp nhất là ống dẫn trứng
bị tắc, nghẽn (chiếm khoảng 75%). Tôi đã có dịp trao đổi với một số bác sĩ chữa
trị hiếm muộn ở bệnh viện trung ương quân đội 108 Hà Nội cũng như ở khoa hiếm
muộn bệnh viện Từ Dũ TPHCM, các anh cũng nhất trí như vậy. Khám cho các bệnh
nhân nữ này bao giờ cũng thấy họ bị thiếu máu cơ tim, nói cách khác thiếu máu
cơ tim là nguyên nhân dẫn tới chức năng sinh sản ở nữ giới bị giảm sút dẫn tới
hiếm muộn.
Để chữa trị cho cả nam, nữ hiếm muộn đạt hiệu quả cao đều phải lấy chữa trị
bệnh mạch vành làm chính, dựa trên nguyên tắc này tôi đã chữa trị thành công
cho rất nhiều bệnh nhân hiếm muộn ở Hà Nội, Sài Gòn cũng như trong cả nước. Tôi
còn chữa cho 3 ca tử cung đôi có con, số lượng tuy không lớn nhưng đây là những
thành công hiếm hoi trong chữa trị vô sinh. Vì rằng rất hiếm gặp những phụ nữ
có tử cung đôi, khi đó trong tử cung người mẹ có một vách ngăn chia tử cung
thành 2 phần. Nhiều chuyên gia phụ khoa cho rằng phụ nữ bị bệnh này thì không
thể có con . Tôi có đọc tài liệu nói rằng ở Mỹ hiện nay có thể cắt màng ngăn đó
nhưng ở Việt Nam thì chưa làm được.
11. Huyết áp cao, huyết áp thấp: Vấn đề huyêt áp
cao, huyết áp thấp đang là nan giải đối với y học thế giới. Tây y nói rằng
“huyết áp cao là vô căn”, tức là huyết áp cao không biết gốc rễ ở đâu. Liệu
điều đó có đúng không? Đề tài nghiên cứu năm 2014 của Bộ Y tế nước ta là
“Nghiên cứu và chữa trị cao huyết áp”. Tháng 10 năm 2014 đã có cuộc họp tại Nha
Trang để tổng kết vấn đề này. Tôi có theo dõi thông tin thì thấy các báo cáo
tại đây đã không phát hiện được điều gì mới cả về quan điểm cũng như cách chữa
trị huyết áp cao. Tôi cho rằng nói “huyết áp cao vô căn là không đúng. Vì dễ
dàng nhận thấy rằng nếu làm cho lòng mạch mở rộng ra và làm cho máu chảy thông
suốt thì tức khắc huyết áp sẽ hạ xuống. Vậy nguyên nhân để làm cho huyết áp
tăng cao là do lượng máu trong cơ thể bị thiếu và các mạch máu trong cơ thể bị
tắc nghẽn, đó chính là bệnh mạch vành. Trong Nội Kinh, từ 3000 năm trước đã viết:
“Sông rạch trong tự nhiên cũng giống như huyết mạch trong cơ thể con người, khi
nước đủ thì các sông rạch đều chảy thông suốt, khi nước thiếu thì các sông rạch
đều trở nên tắc nghẽn; khi máu trong con người đầy đủ thì máu sẽ chảy thông
suốt, khi máu bị thiếu hụt thì máu sẽ bị tắc nghẽn”. Những người bị BMV
nặng nhìn lên tay, chân mình sẽ thấy tĩnh mạch bị giãn nở, nổi lên (những
người không hiểu thì goi đó là gân xanh), đó là một minh chứng cho thấy các
mạch máu đang bị tắc nghẽn mà phinh ra. Lúc này muốn bơm máu tới được các nơi
thì tim phải co bóp mạnh hơn, áp lực của máu lên thành mạch sẽ tăng lên, tức là
huyêt áp tăng lên.
Để chữa HA cao, các thuốc Tây y hiện nay đang đi theo hướng làm giãn
lòng mạch máu, có loại giãn 2 hoặc 4 tiếng. Giãn lâu quá người ta cũng sợ, vì
khi đó các mạch máu lại bị đơ ra, không co lại được, tức mất tính đàn hồi. Các
thuốc này chủ yếu là cắt cơn, ngày nào không uống thì HA lại tăng lên.
Bằng thuốc Đông y, chúng tôi vừa làm tăng lượng máu trong cơ thể,
vừa làm giãn lòng mạch, vừa làm thông suốt mạch máu nên huyết áp được giảm
xuống nhẹ nhàng, kết quả lâu bền hơn, lại không bị tác dụng phụ của thuốc. Các
thuốc hạ huyết áp của Tây y đều có tác dụng phụ đáng kể.
12. Suy thận, chạy thận:
Suy
thận là trạng thái suy giảm chức năng của thận, bao gồm chức năng bài tiết nước
dư thừa trong cơ thể và bài tiết chất độc (hay chất cặn bã) trong cơ thể do quá
trình trao đổi chất gây ra, đồng thời kéo theo sự suy giảm chức năng sản xuất
một vài hooc-môn (hormone) do thận sản xuất. Để chẩn đoán suy thận mạn cần xét
nghiệm nồng độ Ure và Creatinine trong máu. Bình thường Creatinine trong máu là
0,6-1,2 mg/dl với nam và 0,5-1,1 mg/dl với nữ. Nếu Creatinine cao hơn mức trên
là thận đã bị suy.
Người ta chia suy thận ra 5 giai đoạn (hãng thuốc Ketosteril thì chia thành 4
giai đoạn).
Vậy khi nào thì phải thay thận?
Khi
mức Creatinine ở em bé trên 0,2 mg/dl và ở người lớn trên 10 mg/dl thì phải
thay thận, vì khi đó thận không còn lọc tốt được nữa.
Nhưng thay thận là vấn đề nan giản vì mua thận là quá đắt, mặt khác phải tìm
được những quả thận có chỉ số tương ứng quả thận cần thay là điều cực khó. Vì
thế, trong thực tế người ta lựa chọn một hướng khác đỡ tốn kém và dễ thực hiện
hơn là “chạy thận” – thực chất của chạy thận là hút máu trong cơ thể bệnh nhân
ra ngoài, dùng máy lọc chất cặn bã và nước dư thừa rồi bơm trở lại cơ thể. Chạy
thận tuy có đỡ tốn kém hơn so với thay thận nhưng cũng không dễ dàng với túi
tiền của những gia đình có mức sống trung lưu.
Toàn thế giới hiện nay có khoảng 500 triệu người mắc bệnh suy thận
ở giai đoạn cuối (cần thay thận). Ở Việt Nam hiện nay có 10% dân số (khoảng 9
triệu người) suy thận ở các giai đoạn khác nhau, và có hơn 100.000 người suy
thận ở giai đoạn cuối cần thay thận hoặc chạy thận. Nhưng các cơ sở y tế chỉ có
thể chạy thận cho 10% trong số đó, 90% còn lại phải chấp nhận tử vong. “Trong
khi người suy thận trên thế giới chủ yếu là người già, tuổi chạy thận trung
bình từ 60 tuổi trở lên thì ở Việt Nam, suy thận giai đoạn cuối lại đang gặp ở
rất nhiều người trẻ tuổi” (Theo TS Nguyễn Cao Luận, trưởng khoa thận Bệnh viện
Bạch Mai).
Còn Đông y thì sao?
Như ở phần trên tôi đã phân tích, nguyên nhân của suy thận là bệnh mạch vành.
Một cơ sở nữa để củng cố cho lý thuyết trên là, tôi đã khám cho khoảng 1000
bệnh nhân chạy thận, tất cả đều bị thiếu máu cơ tim (chưa tìm thấy trường hợp
nào ngoại lệ).
Từ đó chúng tôi đề xuất phương pháp chữa suy thận là cần bổ sung kịp thời lượng
máu cần thiết về nuôi thận. Để làm điều đó với tôi không khó, chỉ cần kết hợp
các vị thuốc bổ thận với thuốc chữa mạch vành, bao giờ cũng thành công. Đó là
bài Kiện Tâm Não Thận Hoàn vừa bổ thận để sinh máu vừa làm thông các động, tĩnh
mạch tới tim, não, thận cũng như toàn thân. Nhờ bài thuốc này mà trong 10 năm
qua, có hàng trăm người được các bệnh viện dự báo phải thay thận, chạy thận
trong 3 đến 5 tháng tới đã không còn phải chạy thận, thay thận nữa. Tôi thật
sung sướng vì điều đó. Slogan của tôi cho trang web “www.chaythan.vn” là “Cứu
được một quả thận là cứu được cả một cuộc đời”.
13. Đau dạ dày:
Bạn
đã nghe một bác sĩ nào nói đau dạ dày liên quan tới đau tim, mạch vành và ngược
lại chưa? Chắc chắn là chưa phải không.Tôi đã đọc rất nhiều, cả trong sách vở
và trên mạng, chưa thấy ai nói như thế cả.
Vậy
mà sự thật hiển nhiên là tất cả bệnh nhân bị BMV nặng đều đau dạ dày, và ngược
lại những bệnh nhân đau dạ dày nặng đều bị bệnh mạch vành. Trong gần 40 năm
chữa bệnh, tôi đã khám và điều trị cho khoảng 30 ngàn bệnh nhân mạch vành, nên
kết luận trên là hoàn toàn chính xác. Chỉ có điều mạch vành bị trước hay dạ dày
bị trước thì bằng lâm sàng tôi chưa xác định được rõ. Nhưng Đông y lại ra đời
từ âm dương ngũ hành, theo tương sinh, tương khắc của ngũ hành thì Tâm hỏa sinh
ra Tỳ Thổ - Vy (dạ dày) là phủ của tạng Tỳ. Nên Tâm (tim, mạch) yếu thì tỳ phải
yếu (mẹ yếu thì sinh con yếu), mà tỳ yếu thì dạ dày đau là đúng rồi. Vậy theo
ngũ hành thì BMV la nguyên nhân của đau dạ dày. Muốn chữa đau dạ dày thì phải
bổ tim, mạch (muốn con khỏe thì phải bổ mẹ). Theo lập luận đó, tôi đã dùng bài
thuốc chữa mạch vành kết hợp mấy vị tiêu viêm, giảm đau, thanh nhiệt để chữa
đau dạ dày. Hàng trăm bệnh nhân dạ dày đã khỏi, dù cho có vi khuẩn H.Pylory hay
không!
Trong khi Tây y tới nay vẫn chưa tìm ra bài thuốc đặc trị dạ dày, các bác sĩ
vẫn dùng 3,4 loại kháng sinh kết hợp để chữa dạ dày. Liều được coi là “hiệu
quả” mỗi tháng phải mất 3 triệu rưỡi tới 4 triệu, đắt gấp đôi thuốc của chúng
tôi. Chưa kể thuốc của chúng tôi kiêm chữa rất nhiều bệnh khó cùng lúc như:
BMV, tiểu đường, huyết áp, đau mỏi xương khớp, đau dạ dày,v..v..
14. Làm đẹp: Mụn mặt, nám mặt.
Nói
tới làm đẹp,chắc không ai không biết thành ngữ “nhất dáng, nhì da”. Điều đó
thật dễ dàng thừa nhận, ví như một cô gái thân hình có nhiều đường cong bốc lửa
nhưng làn da lại xanh mét, sần sùi thì có thể gọi là người đẹp được không? Rõ
ràng làn da giữa vai trò vô cùng quan trọng trong sắc đẹp, những nhà sản xuất
hóa mỹ phẩm, những người hóa trang giỏi đều rất sành sõi về điều này.
Thế
nào là một làn da đẹp? Ba yếu tố cần có là hồng nhuận, trắng sáng và mịn
màng. Ở một người bị BMV thì không thể có 3 điều đó được. Vì không đủ khí
huyết nuôi dưỡng thì da sẽ không thể nào hồng nhuận được. Khi đó da sẽ xỉn lại,
mặt da sẽ không mịn màng, sáng bóng được. Nám mặt, mụn mặt cũng là những kẻ thù
của sắc đẹp. Là một người đã nhiều năm chữa mụn mặt, tôi nhận ra rằng cả nam
lẫn nữ, tất cả những người bị mụn mặt thì đều bị khí hư, huyết ứ tức là bị BMV.
Mụn mặt chữa từ ngoài vào (bôi các loại sữa, kem) thường không hiệu quả, mà
phải chữa BMV kết hợp thanh nhiệt, tiêu viêm mới đẹp hoàn hảo và bền lâu được.
Bằng phương pháp này tất cả các ca mụn mặt tôi chữa đều đạt kết quả mỹ mãn, sau
chữa da mặt sẽ trở nên hồng hào trắng sáng và mịn màng hết mụn, nhiều năm sau
không bị tái phát.
Nám mặt thì sao? Phụ nữ ở tuổi trên dưới 40 thường hay bị nám mặt, bị
nhiều nhất là vùng 2 gò má và dưới 2 mắt. Khám cho những chị em đó sẽ nhận ra
chác chắn họ bị BMV. Các chữa tốt nhất của bệnh này là chữa BMV, làm tăng máu
cho bệnh nhân và làm cho máu lưu thông lên mặt, rồi rám mặt sẽ đỡ dần và hết hẳn.
Còn nhớ chị Nguyễn Thu Hương ở Thanh Đa, một đại gia bất động sản, mười năm
trước tìm tới tôi với khuôn mạt đầy mụn và nám. Chi bảo “đã chữa nhiều nơi, mất
cả trăm triệu rồi mà không khỏi, cứ để khuôn mặt này nhiều khi mất tự tin quá”.
Tôi bảo: tôi sẽ chữa hết mụn và nám cho chi không cần tới 5 triệu đồng.Sau khi
cho chị uống 20 thang thuốc, mụn gần như hết, nám đỡ nhiều. Sau đó chị sang
sống ở Úc, tôi cho chị mang thuốc viên sang đó dùng. Một thời gian sau đó chị
mừng rỡ gọi điện về báo tôi hay đã hết mụn và nám. Bẵng gần 10 năm, năm ngoái
tôi gặp chị về chăm bố ốm, mặt trắng hồng, da nhẵn bống. Tôi hỏi chị có uống
thuốc gì thêm không? Chị bảo từ ngày thầy chữa cho tới nay, da mặt em ngày một
đẹp ra, cảm ơn thầy nhiều lắm.
BMV còn làm cho thị lực giảm nhanh và phản xạ mắt chậm chạp,
máu lên não kém nên trí nhớ cũng bị suy giảm, hay quên. Khi chữa nám mặt,
mụn mặt máu sẽ tăng cường lên phần phía trên, trí tuệ sẽ minh mẫn ra, mắt sáng
tỏ và phản xạ linh hoạt hơn, nhìn vào đôi mắt – cửa sổ của tâm hồn – sẽ thấy có
thần, có hồn hơn, hấp dẫn hơn nhiều.
Về mặt tạo dáng, khi bị BMV máu đi nuôi tứ chi, toàn thân sẽ thiếu nên
cột sống sẽ đau, dáng đi khổng thẳng. Tây chân cơ bắp nhão ra, phản xạ chậm
chạp. Khi máu được tăng cường, cơ bắp sẽ săn chắc lại, động tác nhanh nhẹn,
linh hoạt hơn, trông con người ta sẽ trẻ ra và đẹp lên.
Vậy là chỉ cần chữa BMV con người sẽ trở nên trẻ, khỏe và
đẹp hơn, dĩ nhiên khi đó tinh thần cũng được cải thiện, nụ cười nở trên môi sẽ
duyên dáng, cởi mở và trẻ trung hơn, hạnh phúc như đang kết hoa trên khuôn mặt
họ. Cả thầy thuốc và bệnh nhân đều thấy mừng vui.
15. Ung thư:
Đây là căn bệnh đang gây tử vong lớn thứ 2 cho nhân loại ( sau
mạch vành) nhưng việc sớm phát hiện ra bệnh và chữa trị còn gặp nhiều khó khăn.
Theo thống kê của Hiệp hội ung thư, mỗi năm nước ta bị mắc mới là 150 000 ca,
số ca tử vong là 75 000 người.
Sau khi chữa trị thành công được một số bệnh khó như BMV, gút, hen suyễn,
eczema, vô sinh, cơ-xương-khớp, tôi đã định không nghiên cứu chữa trị thêm bệnh
nào nữa. Nhưng nhận thấy những bệnh nhân ung thư (trong đó có cả những người
thân của mình) ra đi thật đau đớn, nên tôi quyết định bắt tay vào nghiên cứu
bệnh này.
Bước đầu việc nghiên cứu và chữa trị ung thư của tôi là có nhiều
thuận lơi.Tuy nhiên những điều tôi viết ở đây chưa phải là kết luận cuối cùng,
vì đây là đề tài lớn nhất của y học toàn thế giới hiện nay, nên tôi muốn chữa
trị thành công mhiều hơn nữa rồi mới đưa ra những kết luận cũng như đính chính
những quan điểm sai lầm về ung thư và cách chữa trị nó. Những điều tôi viêt lên
đây là muốn để cùng các đồng nghiệp cũng như các bệnh nhân ung thư trao đổi,
nhằm tìm ra môt giải pháp hay hơn, hiệu quả hơn giúp người bệnh bớt đi những
tổn thất nặng nề. Có một điều từ lâu cứ ám ảnh tôi là liệu BMV có phải là
nguyên nhân của ung thư không? Vì sao tôi nghĩ như vậy? Có mấy cơ sở sau:
A.Theo lý luận Đông y, sự hình thành những khối u
chắc chắn là do khí huyết không được lưu thông, vì “thống tắc bất thông” mà.
Trong các bệnh cơ-xương-khớp cũng như bệnh Gút, ta đã thấy rõ khi máu đi qua
các khớp bị tắc, nghẽn thì các khớp sẽ sưng tấy lên và gây ra đau đớn; nếu bằng
cách nào đó lam cho máu lưu thông qua các khớp thì sẽ hết sưng, hết đau ngay.
Việc hình thành các khối u trong cơ thể cũng cùng theo một nguyên tắc đó mà
thôi. Sự hình thành khối u này rất giống một hiện tượng bạn thường gặp hàng
ngày khi đi trên một con đường lớn: Khi không có gì gây tắc, nghẽn đường
thì xe, cộ đi lại thong dong, còn khi phía trước có một vụ tai nạn hoặc một
chiếc xe dừng lại làm cho đường bị tắc, nghẽn thì các xe phía sau sẽ chạy chậm
lại, một lát sau các loại xe sẽ dồn đống lại, tạo nên đông đặc, kẹt cứng đường,
không thể lưu thông được nữa. Khi đó cần có mấy chú cảnh sát giao thông giúp đỡ
làm cho đường thông dần thì khối người và xe cộ kia sẽ giảm dần tới lúc thông
suốt.
B.Tôi còn nhớ một bài báo cách đây gần 20 năm của
các nhà Y học Tây Đức cũ, nói rằng họ đã tiến hành một thí nghiệm với 5000 phụ
nữ, trong đó nhóm 1 gồm 2500 người thường xuyên mặc áo ngực (bra – xu chiêng),
nhóm 2 gồm 2500 người chỉ mặc áo ngực khi cần thiết. Theo dõi trong 10 năm
người ta thấy tỉ lệ mắc bệnh ung thư vú ở nhóm 1 lớn gấp 4 lần ở nhóm 2. Họ
giải thích rằng, sỏ dĩ như vậy vì nhóm 1 thường xuyên mặc áo ngực – nịt chặt
vòng ngực – nên lượng máu về nuôi vùng ngực và nhất là 2 bầu vú bị thiếu. Các
tế bào ở vú bị thiếu dinh dưỡng nên phát sinh ung thư. (Tôi đã lưu số báo này
nhưng giờ bị lẫn trong khối sách rất lớn nên chưa tìm lại được). Tôi nhớ bài
báo này vì thấy cách giải thích của các bác sĩ Tây y ở đây trùng với cách giải
thích của Đông y – một dấu hiệu nhỏ đáng mừng, chứng tỏ Tây y và Đông y đang
xích lại gần nhau.
C.Qua thực tế lâm sàng, tôi đã khám cho 400 bệnh
nhân ung thư thì thấy rằng tất cả các bệnh nhân đó đều bị thiếu máu và các mạch
máu đang bị tắc nghẽn, tức là các bệnh nhân ung thư đều bị BMV( chưa tìm thấy
ngoại lệ).
D.Tôi đã sưu tầm và nghiên cứu các bài thuốc chữa
ung thư trong và ngoài nước. Hiện nay, trong tay tôi đã có gần 1300 bài thuốc
chữa ung thư của Trung y, đặc biệt là cuốn “Những bài thuốc bí truyền độc đáo
chữa bệnh ung thư” do Hiệp hội nghiên cứu, khai thác Trung y dược Trung Quốc
biên soạn, NXB Trung Quốc y dược Khoa học kỹ thuật phát hành năm 1996. Nghiên
cứu kỹ các bài thuốc này, thấy rằng các bài thuốc chữa bệnh ung thư của các
thầy thuốc Trung Hoa nhằm vào mấy tiêu chí sau:
1.Thanh nhiệt, giải độc, chỉ thống.
2.Hoạt huyết – hóa ứ.
3.Nhuyễn kiên, tán kết.
4.Ích khí, bổ huyết.
5.Lợi thủy, tiêu thũng.
6.Trừ đờm.
Sau khi nghiên cứu, đúc kết ra được 6 tiêu chí này, mắt tôi bỗng sáng bừng lên;
tôi như muốn reo to: “Trời ơi, 6 tiêu chí này cũng chính là 6 tiêu chí tôi đã
đặt ra khi soạn bài thuốc “Kiện tâm não thận hoàn” để chữa bệnh mạch vành”! Vậy
ra, bài thuốc chữa ung thư và mạch vành bằng Đông y là giống nhau.Tôi thật sự
sung sướng với khám phá này, đây là điều bí ẩn mà bao năm nay tôi đang tìm
kiếm! Bao năm nay tôi hằng mong đợi.
Thế là đã rõ: bệnh ung thư có nguyên nhân từ bệnh mạch vành, và cách chữa trị
bệnh ung thư phải lấy cách chữa trị mạch vành làm cơ sở thì mới thành công
được, vì việc hình thành khối u là do mạch máu bị tắc ,nghẽn; nếu tìm được cách
làm cho mạch máu thông suốt trở lại thì khối u sẽ nhỏ dần rồi biến
mất.
Trên cơ sở đó, tôi đã bắt đầu chữa trị cho một số ca ung thư, bước đầu các kết
quả là tốt đẹp, dĩ nhiên tôi vẫn chưa vội mừng vì còn phải tiếp tục nghiên cứu,
chữa trị nhiều hơn nữa mới dám khẳng định lý thuyết của mình là hoàn toàn đúng.
Hiện nay, việc chữa tri ung thư đối với y học toàn thế giới còn hoàn toàn bế
tắc, chưa có một phương pháp nào dám nói là ưu việt nhất cả. Một vài bệnh viện
khi chữa trị được vài ca ung thư đã công bố ầm ĩ, thiết nghĩ hơi vội vàng. Thường
những điều tôi công bố phải là kết quả thành công hàng trăm, hàng
ngàn trường hợp, còn một số trường hợp thì chưa thể nói gì hơn.
Có thể thấy, dùng thuốc Đông y cho bệnh nhân ung thư có 4 điều lợi sau:
-Tăng cường được lượng máu và làm thông huyết
mạch cho các bệnh nhân, nhờ đó các khối u nhỏ dần và rồi tiêu tan, điều
đó các phương pháp chữa trị của Tây y không thể làm được. Đây cũng chính là nội
dung của phương pháp “công phá huyết ứ để phù chính khu tà”mà Vương Thanh Nhậm, một thầy thuốc nổi tiếng của Trung Quốc đã đề
xuất cách đây 200 năm.
- Chữa trị ung thư bằng Đông y không có tác dụng phụ,
nên không làm tổn hại sức khỏe – vốn đang rất thiếu – của bệnh nhân như các
phương pháp dùng xạ trị hoặc hóa chất.
-Tăng cường được sức khỏe cho bệnh nhân, nhờ đó
tăng sức đề kháng và khả năng miễn dịch cho bệnh nhân. “Thân cường thì bệnh
nhược”, khi sức khỏe tăng lên thì bệnh tật sẽ bị đào thải dần.
-Khi lượng máu được tăng cường, chức năng các tạng, phủ sẽ hồi
phục. Khi đó, các tạng phủ sẽ biết sản sinh ra những chất gì có khả năng khống
chế và tiêu diệt mầm bệnh ung thư, phục hồi lại sức khỏe cho bệnh nhân, điều mà
trong phòng thí nghiệm còn lâu chúng ta mới chạy đua kịp với tạo hóa.
Hiện chúng tôi đang chữa ung thư bằng thuốc Đông y dưới 3 dạng:
a.Hiện nay đang ngày càng đông dần những bệnh nhân
lựa chọn chữa trị ung thư bằng thuốc Đông y hoặc thuốc Nam mà không dùng hóa
trị hoặc xạ trị, vì họ nhận ra rằng chữa trị bằng Tây y kết quả cũng còn rất
thấp, chưa đủ độ tin cậy mà giá thành rất đắt, tác dụng phụ với cơ thể rất lớn.
Trường hợp này có ưu điểm là họ chưa bị tác dụng phụ của thuốc Tây y, sức khỏe
bị suy giảm chưa nhiều, cơ may hồi phục vẫn còn lớn hơn là sau khi đã chữa Tây
y không khỏi mới chuyển sang Đông y.
Xin nêu một ví dụ để quý vị tham khảo: Trên tay tôi đang có hồ sơ
của một bênh nhân nam, 53 tuổi, đến từ TP Hạ Long, Quảng Ninh. Anh được BV Đại
học Y Hà Nội chụp cắt lớp vi tính( CT Scanner) với kết quả: “ Tụy tạng: nhu mô không đồng
nhất, vùng thân và đuôi tụy có hai khối nang kích thước 35x 60mm và 60x80mm ,
xâm lấn rộng xung quyanh; Nhiều hạch lớn trong ổ bụng và sau phúc mạc. Hình ảnh
đám đặc xương kích thước 20x27mm trên xương cánh chậu trái”. Sau đó bn được đưa
vào TP Hồ Chí Minh để kiểm tra lại. Người nhà bn cho hay các chuyên gia hàng
đầu về u bướu ở cả Hà nội và TP Hồ Chí Minh đều lắc đầu, cho rằng không còn
cách gì nữa, tính mạng bn chỉ được tính từng ngày một thôi! Sau khi khám cho
bn, mặc dù thấy bn bị thiếu máu nặng, nhưng tôi thấy vẫn chưa hết hy vọng. Tôi
chữa không dùng thuốc cho bn, chỉ sau 10 phút thì bn thấy đỡ đau hẳn. Tôi cho
bn uống thuốc viên kết hợp. Sáng sớm hôm sau, bn gọi điện cho tôi, báo tin rằng
đêm qua đã ngủ được mấy tiếng, người thấy thoải mái hơn. Tôi tiếp tục cho uống
thuốc viên. Mười ngày sau, bn vui mừng báo cho tôi rằng anh đã hết sốt, hết đau
hẳn, ăn, ngủ, đi lại bình thường. Bạn thấy ngạc nhiên chưa? Tôi rất mừng, bảo
anh rằng kết quả bước đầu như thế là tốt, nhưng còn phải tiếp tục chiến đấu,
phải uống thuốc đều, tuyệt đối bỏ rượu, bỏ thuốc lá, tăng cường vận động…Bạn có
thấy mừng không? Có thấy Đông y chữa ung thư thật tuyệt vời không? Liệu bằng
phẩu thuật, bằng xạ trị, bằng hóa trị có thể cho kết quả nhanh tới vậy
không…?? Do khuôn khổ bài viết có hạn, tôi chỉ trích một đoạn ngắn vậy
thôi,để nói với các bn rằng: khi bạn bị phát hiện có khối u trong người thì
cũng đừng vội bi quan, đừng sớm đầu hàng, chúng ta vẫn còn có cơ hội chiến
thắng hoặc bằng Đông y, hoặc bằng Tây y đấy
chứ!
b.Dùng thuốc Đông y kết hợp với hóa trị (kết hợp
Đông và Tây y). Khi đó thuốc chúng tôi sẽ làm tăng lượng máu và thông suốt các
mạch máu cho bệnh nhân, đồng thời giúp hạn chế tác dụng phụ của hóa chất. Cũng
có người sau khi chuyền đủ liều hóa chất rồi mới chuyển sang dùng Đông y.
c.Loại bệnh nhân nặng, sau khi bệnh viện Tây y đã
bó tay, trả về. Khi đó họ dùng Đông y với tư tưởng cầu may. Trường hợp này vẫn
chưa hết cơ hội, nhưng rõ ràng là rất khó, cứu được ca nào hay ca đó. Gặp các
trường hợp này, các thầy thuốc Đông y cần phải tỉnh táo, chặt chẽ kẻo bị oan
gia đấy.
Vì đây là phần rất khó, nên phần viết này của tôi chưa phải là những kết luận
cuối cùng. Xin các bệnh nhân và đồng nghiệp coi đây là những suy nghĩ và kết
quả ban đầu. Nếu có điều gì sai sót xin các bậc cao minh chỉ giáo.
IX. Một số ca điển hình để quý vị tham khảo:
1.Bà Chu thị Phương L:
sinh năm1933 ở số nhà 22 ngách 36 ngõ chùa Liên Phái, phường Cầu Dền,quận Hai Bà
Trưng, Hà Nội.Bà nguyên là trưởng phòng tổ chức của Viện lương thực , thực phẩm
,bộ Công nghiệp .Cách đây 15 năm, bà đả 3 lần bị nhồi máu cơ tim, đã điều trị ở
Bệnh viện Việt Xô (nay là bệnh viện Hữu nghị) nhưng không khỏi,người vẫn rất
mỏi mệt, không tự lên xuống cầu thang được. Tôi đã chữa cho bà bằng Đông y, sức
khỏe của bà ổn định dần, tim không bị nhói nữa , rồi bà tự lên xuống cầu thang
được; mấy năm nay bà mỗi năm một khỏe ra ,trí nhớ hồi phục tốt, bà ôn lại tiếng
Hoa, làm thơ Đường…Năm ngoái tôi có gửi ra Hà Nội biếu bà mấy lọ thuốc tim,
nhưng vì ngõ chùa Liên Phái hẹp,ô tô không vào được,nên bà đã đi bộ ra tận 34
Bạch Mai để lấy thuốc,mọi người đi trên xe hôm đó đều ngạc nhiên về sức khỏe
của bà: gần 80 tuổi, ba lần nhồi máu cơ tim,thế mà nay trông bà vẫn khoẻ mạnh,
nhanh nhẹn, giọng bà vẫn sang sảng…Vừa rồi bà còn gửi tặng tôi một tập thơ do
bà xướng họa cùng các cụ ở trong câu lac bộ Thăng Long Hà Nội.
2. Ô Phan duy H ,sinh 1937 ở nhà G1 khu tập thể Trung Tự, quận Đống Đa Hà
Nội. Theo ông kể: ngày 18/2/2007 đi tập thể dục về, ông bị nhồi máu cơ tim,
được cấp cứu vào viện tim .Tại đây, các giáo sư , bác sĩ đã chẩn đoán ông bị
thiểu năng động mạch vành(thiếu máu cơ tim), có 4 chỗ trên động mạch vành bị
hẹp nặng trên 70%,mạch đập rất chậm, xấp xỉ 45 lần/phút.Lúc đầu ông được chỉ
định đặt stent, nhưng sau đó các bác sĩ gặp người nhà, nói rằng sức khỏe ông
quá yếu, ông còn bị tiểu đường nặng nữa, nếu đặt thì xác suất rất thấp, năm ăn
năm thua; tuỳ gia đình xem lại, quyết tâm thì vẫn làm, nhưng thực tế là khó
khăn như vậy, cần thông báo để gia đình rõ. Ông nói lúc đó sức khỏe của ông
thực quá bi quan,không tự đi lại được,da dẻ tái mét, chỉ ngồi trên ghế, mà quay
đầu qua lại cũng bị choáng rồi, nên các con ông quyết định không đặt stent nữa,vì
sợ nguy hiểm tới tính mạng của bố. Ông có người con trai làm việc tại thành phố
H.C.M, anh mang hồ sơ của ông qua hỏi Viện Tim và Viện Tim Tâm Đức cũng đều
được trả lời như Viện Tim Hà Nội, thế là đành chung sống hòa bình với bệnh. Sau
nhờ có người nhà ông, đã được tôi chữa bệnh mạch vành giới thiệu, ông gọi điện
nhờ tôi chữa trị. Sau khi kiểm tra các thông số, tôi gửi thuốc ra Hà Nội cho
ông. Trái tim cùng sức khỏe của ông đã phục hồi nhanh chóng… Một
thời gian sau, ông thông báo cho tôi đã tự lên xuống cầu thang được, rồi
đã tự lấy nước lau nhà, và đã đi bộ được 3 vòng quanh hồ ở gần nhà khoảng 2km.
Khoảng mấy tháng sau, ông lại gọi điện báo tôi rằng, ông vừa đi khám ở bệnh
viện, các bác sĩ bảo thận ông quá yếu, có thể mấy tháng nữa ông sẽ phải đi chạy
thận.Ông nói thầy đã cứu trái tim tôi, bây giờ thầy có thể cứu quả thận tôi
được không? Tôi kiểm tra số đo Creatinin và Urê huyết đều cao.Tôi nói với ông
rằng theo quan niệm của Đông y thì hầu hết những người bị bệnh mạch vành đều bị
thận yếu (thận suy giảm chức năng) với các mức độ khác nhau. Theo các số liệu
thì thận của bác hiện đang bị yếu, nhưng tôi tin là có thể chữa cho bác khỏi
phải chạy thận được, vì tôi đã chữa thành công nhiều ca tương tự. Tôi lại cho
ông uống thuốc Đông Y. Kết quả khá tốt, các số liệu của Creatinin và Urê trở về
trong giới hạn cho phép, ông không cần phải chạy thận nữa. Ông gọi cho tôi biết
sức khỏe của ông đã khá tốt, các con vừa cho ông đi du lịch xuyên Việt, bay từ
Hà nội vào Đà Nẵng, rồi đi ô tô ra Huế chơi, sau đó bay từ Huế ra Hà Nội vui
vẻ. Đã hơn 5 năm rồi, ông không phải đặt stent nào cả, nhờ đông y sức khỏe của
ông ngày một tốt lên, da dẻ hồng hào; sáng, chiều ông vẫn đi bộ đều đặn.Hiện
ông chuyển về ở cùng con ở khu bán đảo Linh Đàm. Một người chú của ông nói vói
tôi rằng: “ ông vẫn khoe với mọi người là tôi đã tái sinh ra ông, đã giúp ông
vượt qua 3 căn bệnh hiểm nghèo là suy tim, tiểu đường và chạy thận”.
3. Ông Cao Địch N sinh 1933 hiện sống ở nhà số 52 ,đường 2, Thảo Điền, quận
II, t p Hồ Chí Minh. Ông nguyên là cục phó cuc điện ảnh Việt nam.Ông bị thiểu
năng động mạch vành phải điều trị từ hơn 35 năm nay (từ 1983), đã 3 lần nhồi
máu cơ tim.
Tới tháng 1 năm 2006 ông được bệnh viện Thống Nhất can thiệp đặt
stent.Trên hồ sơ của ông mà tôi còn lưu giữ ghi : Kết quả chụp mạch
vành :
Động mạch vành trái: thân chung không có tổn thương,nhánh liên thất trước hẹp
nặng 70% đoạn gần- giữa. Động mạch mũ thành không đều, tắc hoàn toàn đoạn giữa.
Động mạch vành phải: thành không đều, hẹp khít đe dọa 95% chỗ cong thứ nhất;
hẹp nặng 65% và 70% đoạn giữa, đoạn xa tốt.
Tại đây ông đã được đặt 3 stent (3,0x25mm)(3,25x16mm)(3,5x16mm) cho các
tổn thương trên động mạch vành phải.
Bệnh án ghi hướng điều trị tiếp theo: Tiếp tục điều trị nội khoa tối ưu và xem
xét can thiệp tổn thương còn lại trên nhánh mũ và nhánh liên thất trước nếu gia
đình có yêu cầu.
Nhưng trong khi đặt 3 stent trên ông đã bị hôn mê 3 tiếng đồng hồ, nếu đặt tiếp
gia đình sợ ông sẽ gặp nguy hiểm, vì lúc này sức khỏe của ông kém lắm.
Sau nhờ có người giới thiệu, ông tìm đến chỗ tôi điều trị. Sau khi điều trị
khoảng 2 tháng, tim ông bình thường, không còn thường xuyên thấy đau râm ran ở
ngực nữa. Cùng năm đó, cục điện ảnh gọi điện vào mời ông ra dự kỷ niệm 50 năm
thành lập Fafim Việt Nam, nếu đi được, họ sẽ gửi vé vào.Ông hỏi tôi có đi được
không , tôi bảo bác đi bình thường. Sau khi dự lễ về, tới thăm tôi ông nói: Tôi
ra Hà Nội lần này thật phấn khởi,gặp bạn bè cũ ai cũng vui vẻ bảo:”nghe nói bác
đã 3 lần nhồi máu cơ tim lại đặt 3 stent trong tim, tưởng khó có cơ hội gặp
nhau, thế mà nay được gặp, lại hồng hào, khỏe mạnh như thế này, thật không có
gì vui hơn !”
Trường hợp này thật điển hình, nó
minh chứng được rằng thuốc Đông y của chúng tôi đã làm thông được động mạch
vành. Vì động mạch vành trái dùng để đưa máu nuôi nửa quả tim bên trái gồm có 2
nhánh chính là nhánh mũ và nhánh liên thất thì nhánh mũ đã bị tắc hoàn toàn,
nhánh liên thất bị hẹp 70%, làm sao nó còn cung cấp đủ máu để tim hoạt động
bình thường; sớm hay muộn thì nửa quả tim bên trái cũng sẽ bị hoại tử, gây ra
nhồi máu cơ tim. Thế mà đã 12 năm rồi, không phải đặt thêm stent nào, tim ông
vẫn làm việc bình thường.Trong khi các trường hợp tương tự, trong khoảng thời
gian ấy đã phải đặt thêm 6,7 stent nữa rồi, và hiện đang gặp bế tắc không biết
xử trí ra sao !. Ông còn cho biết chỉ số EF(phân xuất tống máu) của trái tim
ông ngày một cải thiện, năm sau cao hơn năm trước, ngày 20/9/10 vừa qua, các
bác sĩ vừa đo được chỉ số EF của ông là 64%. Còn nhớ vào năm 2006, năm đó đã 73 tuổi, ông đặt
vấn đề: làm sao để sống được tuổi 80? Và nhận huy hiệu 50 năm tuổi Đảng.Tết năm
nay, ông gọi điện chúc sức khỏe tôi, tôi đùa: “Chúc mừng bác nhé, chúng ta vượt
kế hoạch 5 năm rồi đấy! (vì năm nay ông đã sống đến tuổi 85, đã nhận huy hiệu
55 năm tuổi Đảng), bác bảo: “Cảm ơn thầy nhiều, nhờ thuốc của thầy mà tôi có
được sức khỏe như hôm nay. Hiện nay, trí tuệ bác vẫn hoàn toàn minh mẫn, hàng
ngày bác vẫn vào facebook làm thơ, giao lưu cùng bạn hữu khắp cả nước, cùng các
cháu bác tận bên Mỹ. Các bạn có thể lên fb tìm “Nghi Cao” (thành phố Hồ Chí
Minh), sáng nay (27/5/2018), ông vừa đăng lên FB bài thơ tứ tuyệt “Bốn mùa”. Các bạn vào đọc để thấy ông còn minh mẫn tới chừng nào, mặc dù đã
sang tuổi 86, đã bị BMV hơn 35 năm, có 3 điểm tắc nhưng lại không phải đặt stent
nào trong 12 năm qua!
4.Ông Trần Văn L: Sinh năm 1952, trú tại Phan Văn
Khỏe, phường 5, quận 6, TP HCM. Theo hồ sơ sức khỏe của ông: tháng 6 năm 2003,
sau khi điều trị nội khoa không đỡ, bệnh nặng hơn, ông được đặt 2 stent. Tháng
11 năm 2009, ông được đặt thêm 1 stent .Tháng 8 năm 2010, ông được đặt thêm 3
stent (gồm 2 stent lồng và 1 stent mới ) .Tháng 2 năm 2011, ông được đặt thêm 1
stent mới. Tháng 6 năm 2011, thấy hay bị mệt, hụt hơi, vào viện khám, các bác
sỹ nói rằng khả năng ông phải đặt thêm một hoặc hai stent nữa. Ông suy nghĩ rất
nhiều, vì sức khỏe ngày một giảm sút quá nhanh, mà tốc độ đặt stent thì ngày
càng quá dày: từ tháng 11 năm 2009 tới tháng 2 năm 2011 có 16 tháng ông đã phải
đặt 5 stent, trung bình hơn 3 tháng phải đặt 1 stent; tới tháng 6/ 2011, thêm 4
tháng lại phải đặt thêm 2 stent nữa. Nếu tới đó không đặt thêm stent được nữa
thì tương lai, đời ông sẽ ra sao? Trong tâm trạng lo lắng, ông lên mạng tìm
kiếm và gặp trang web của chúng tôi. Ông gọi điện hỏi chúng tôi có thể chữa
giúp ông không phải đặt thêm stent nữa được không, vì ông đã đặt 7 stent rồi,
nếu phải đặt thêm một hoặc hai stent nữa thì ái ngại quá. Chúng tôi trả lời sẽ
giúp ông đạt được mong muốn. Tới nay đã gần 2 năm rồi, ông được chữa bằng bài
thuốc đông y của chúng tôi mà không phải đặt thêm stent nào nữa, sức khỏe của
ông ngày một khá hơn, trí tuệ ông vẫn minh mẫn, da dẻ hồng hào, đẹp hơn trước
nhiều. Sau này, ông cho tôi biết là ông đã sử dụng tất cả
các loại thuốc được quảng cáo trên mạng Internet và trên TV nhưng không có kết
quả, Chỉ có từ ngày uống thuốc của chúng tôi mới đạt được kết quả tốt. Hiện nay
ông vẫn dùng thuốc của chúng tôi, vì đây là thuốc duy nhất giúp ông vượt qua được
khó khăn này.
5. Bà Trần Thị L ở khu tập thể cục 2
quân đội tại xã xuân la, huyện Từ Liêm, Hà Nội. Bị thiếu máu cơ tim , rối loạn
nhịp nhanh (mỗi phút tim đập lúc nhanh lên đến 110 tới 140 lần / phút ), trong
lồng ngực bên trái bị nhói đau hàng ngày, huyết áp cao, tiểu đường . theo các
bác sĩ bà bị tắc nghẽn 3 điểm trên động mạch vành nhưng sức khỏe bà quá yếu lại
thêm bị tiểu đường nặng, không đặt stent được.Các bác sĩ bảo những trường hợp
này Tây y đều bó tay. Nhờ có người giới thiệu, con gái bà là chị Nguyễn thị
Hồng M giáo viên tại trường Marie Curie số 3 đã gọi điện cho tôi , nhờ tôi cấp
cứu cho bà.Tôi gọi điện ra Hà Nội, kiểm tra thêm một số chi tiết khác và nhận
lời chữa cho bà: tôi gửi thuốc ra cho bà. Sau khi uống thuốc được 2 ngày, con
gái bà gọi điện cho tôi hay là tim bà đã đỡ nhói hơn, bà đã bắt đầu ngủ được,
sau khi uống thuốc một tuần, thì tình hình đã được cải thiện rõ rệt, sức khỏe
bệnh nhân đã tăng lên,bà đã tin viêc chữa trị bằng Đông Y là có hiệu quả. Sau
một tháng điều trị, nhịp tim bà đã trở lại bình thường, huyết áp ổn định, lượng
đường trong máu trở về mức cho phép.
6.Ông Bùi Xuân H , sinh năm 1946,quê ở Huế. Ông biết mình bị đau tim từ
lâu, nhưng trước đây nhiều lần đi khám các BS vẫn không phát hiện ra. Năm 2007,
ông phải cấp cứu vào một BV lớn ở Sài Gòn và sau đó được bắc 4 cầu động mạch
vành, đồng thời phải đặt máy điều hòa nhịp tim vì nhịp quá chậm.Năm 2010, thấy
người hay mệt, hay bị đau tức, rân ran ở ngực, ông lại vào viện khám. Sau khi
chụp ĐMV, phát hiện ra ông bị hẹp thêm 4 điểm mới trên ĐMV khá nặng (90%, 80%,
70% và 65%), vị GS trước kia đã mổ bắc cầu cho ông nói: ở Việt Nam thì không
làm gì được nữa rồi, chỉ còn cách uống thuốc thôi.Mà thuốc Tây ông đã dùng
nhiều nên biết hiệu quả rất kém vì thế bệnh ông mới nặng lên thế này. Đang
trong tâm trạng buồn chán thì có người giới thiệu, ông tới chỗ chúng tôi xin
điều trị bằng đông y, tới nay ông đã đỡ rất nhiều, tinh thần ông vui vẻ trở
lại. Sau đó, có đoàn chuyên gia phẫu thuật tim của Thụy Điển sang bệnh viện T.Ư
Huế, ông đã nhờ người giúp đỡ để được khám. Kết quả các GS nói rằng nếu trường
hợp này ở Thụy Điển thì có thể phẩu thuật tiếp, còn ở Việt Nam thì đoàn cũng
chịu. Trở về SG, ông nói với tôi: Thế là Tây y đã từ chối tôi, giờ chỉ còn
trông chờ vào thầy, vào đông y nữa thôi. Cho ông điều trị thêm 2 tháng, những
điểm hẹp đã được thông, sức khỏe ông trở lại bình thường.
7.Giáo sư Phạm Văn Ch, sinh năm 1955,
trú tại 72/4 khu phố 1, phường Tân Thới Nhất, quận 12. Ông là giáo sư toán tin,
đang giảng dạy tại một số trường Đại học tại TP HCM. Vào tháng 10 năm 2009, ông
bị đau thắt ngực nặng, phải vào viện điều trị, và đã được đặt 3 stent. Đến
tháng 4 năm 2011, ông lại bị đau nặng, khi chụp DSA (chụp xóa nền ) phát hiện 2
trong 3 stent đã bị mỡ lấp đầy (tái hẹp ) nên phải đặt 2 stent lồng. Tới tháng
8 năm 2011, ông lại bị đau ngực nặng, vào viện kiểm tra thấy xuất hiện điểm tắc
mới, các bác sĩ nong mạch vành cho ông và hẹn nếu không ổn thì sẽ đặt tiếp
stent. Ông trở về nhà trong trạng thái lo lắng, vì tốc độ hẹp quá nhanh. Sau
này qua con trai ông, chúng tôi được biết năm 2010 vợ ông vừa qua đời vì nhồi
máu cơ tim, nên tâm trạng ông càng nặng nề hơn. Lên mạng tìm kiếm thông tin và
gặp trang web của chúng tôi, ông gọi điện ngỏ ý muốn được điều trị bằng đông y
để khỏi phải đặt stent tiếp. Chúng tôi nhận lời và điều trị cho ông đạt kết quả
tốt. Đã 7 năm rồi năm rồi, ông không phải đặt thêm stent nào, sức khỏe ngày một
tốt hơn, ông vẫn lên lớp đều đặn.
8. Ô Phan Duy K Sinh 1937 ở tại nhà
31, ngõ Thái Thịnh II, phường Thịnh Quang , Đống Đa, Hà Nội, là đại tá quân đội
nghỉ hưu.
Cách đây 4 năm, ông bị bệnh mạch vành nặng, mặc dù đã được vào Viện quân y 108
điều trị đông tây y kết hợp trong một tháng rưỡi nhưng bệnh tình không thuyên
giảm, nhịp tim không vượt quá 45 lần/phút. Sau đó, ông được con gái là chị Phan
Thu H, thạc sĩ, Vụ phó một Vụ ở bộ y tế, chuyển qua điều trị ở Viện Tim, nhưng
kết quả cũng không khả quan hơn. Có người giới thiệu ông gọi điện vào nhờ tôi
điều trị bằng Đông y. Sau khi kiểm tra hồ sơ của ông, tôi đã gửi thuốc đông y
ra Hà Nội cho ông. Kết quả đến quá nhanh, chỉ sau một tuần uống thuốc viên Đông
y của chúng tôi, nhịp đập tim ông đã nhảy lên 75 lần/phút. Ông và gia đình rất
phấn khởi. Sau đó ông điều trị tiếp 3 tháng, kết quả thu được thật tốt đẹp,
nhịp tim ông đã ổn định, đau râm ran ở ngực cũng không còn. Tiếp đó vợ chồng
ông đi Mỹ thăm con 8 tháng liền, ông có mang theo một ít thuốc của tôi sang đó
để dùng. Lúc trở về ông gọi điện cảm ơn tôi rất nhiều vì suốt 8 tháng ở Mỹ, ông
không phải một lần nào tới viện, sức khoẻ của ông rất ổn định.
9. Bà Nguyễn thị H Sinh năm
1942,hiện ở tại 146-E 16 ,khu biệt thự Thảo Điền I, đường Nguyễn Văn Hưởng, phường
Thảo Điền, quận 2 thành phố HCM.Trước đây bà làm phó phòng tổ chức của
SaiGonship.
Lúc đầu bà tìm đến phòng mạch chúng tôi chỉ để chữa đau khớp gối. Sau khi khám
cho bà, tôi nói bà bị thiểu năng mạch vành (TMCT) và thiếu máu não nặng, nên
hay bị nhói ở ngực (đau thắt ngực) và đau đầu đấy, ngoài ra bà còn bị đau dạ
dày và thận yếu. Bà rất nể là sao không cần đến máy móc chiếu chụp và nội soi
mà tôi lại đọc được bệnh của bà chính xác thế . Tôi nói đó là một trong những
thế mạnh của phồng mạch chúng tôi, tuy nhiên không phải thầy Đông y nào cũng
đọc chính xác như vậy. Bà đề nghị tôi vừa chữa đau khớp gối vừa chữa bệnh mạch
vành (TMCT) và thiếu máu lên não được không ?Tôi đồng ý chữa cả hai bệnh cho
bà. Sau đó tôi đã phục hồi sức khỏe cho bà khá tốt bằng uống thuốc Đông y kết
hợp các phương pháp chữa trị không dùng thuốc. Một thời gian sau, bà tới phòng
mạch của tôi nói rằng bà vừa đi khám ở phòng mạch Côlômbia của Mỹ đặt ở Bình
Thạnh, họ nói rằng bà bị suy thận và 2 tháng nữa phải đi chạy thận, thầy xem
liệu phải làm sao bây giờ. Tôi khám cho bà và nói rằng bà yên tâm, tôi sẽ chữa
cho bà mà không phải đi chạy thận đâu. Bà lại được chữa trị tiếp tục bàng Đông
y, một tháng sau kiểm tra lại, các số liệu Creatinin và Urê đều nằm trong giới
hạn cho phép.Bà rất mừng. Sau đó hai vợ chồng bà đã có chuyến du lịch sang Mỹ 6
tháng thăm các con . Lúc trở về, vợ chồng bà mời tôi ra nhà ăn cơm và cho quà,
bà nói: “Vợ chồng tôi cảm ơn thầy rất nhiều, chúng tôi qua Mỹ 6 tháng, các con
đưa đi thăm thú nhiều nơi trên đất Mỹ, rồi bay đi, bay về VN nhưng sức khỏe của
tôi vẫn ổn định. Những ngày bên Mỹ, không những tôi không phải tới viện một
ngày nào mà còn giúp đỡ được việc nhà cho các con. Các cháu phấn khởi lắm, gửi
lời cảm ơn thầy đã chăm sóc tốt sức khỏe cho tôi”.
10. Giáo sư Nguyễn Vinh S, sinh năm 1937; vợ ông là giáo sư Tôn Nữ
Quỳnh A, sinh năm 1942. Hai vợ chồng ông đều là giáo sư Toán học, trước dạy ở
Đại học Bách khoa Hà Nội, sau chuyển vào Đại học Bách khoa TP HCM. Vào đầu năm
2012, ông bị đau tức ngực, phải vào viện điều trị. Tại đây ông được xác định bị
thiếu máu cơ tim, có những điểm tắc nghẽn nặng trên động mạch vành và được chỉ
định đặt stent. Con gái ông là chị Nguyễn Hương Th lên mạng tìm kiếm thông tin và
chị gặp trang Web của chúng tôi. Chị gọi điện liên lạc và chiều hôm đó giáo sư
Q.A cùng con gái đã tới chỗ chúng tôi. Sau khi hỏi thêm chúng tôi nhiều câu hỏi
xung quanh bệnh thiếu máu cơ tim của ông, cuối cùng bà nói: “Tôi cảm ơn thầy,
khi đọc bài viết của thầy tôi đã rất thích bài viết đó, bài viết rất dễ hiểu,
các ví dụ rất sát, tôi là người không chuyên sâu về y học nhưng đọc tôi hiểu
được, bây giờ được gặp, trao đổi với thầy tôi càng tin tay nghề của thầy hơn.
Nói về bệnh của nhà tôi, , các bác sĩ cho đặt stent là đúng rồi nhưng ông đã
lớn tuổi, sức khỏe yếu, và về tâm lý, nhà tôi cũng chưa sẵn sàng cho lắm; mà
không chỉ ông lo, cả nhà cũng lo cho sự can thiệp này, liệu thầy có thể chữa
bằng đông y giúp nhà tôi khỏi phải đặt stent được không? Tôi cảm ơn bà về những
lời khen mà bà đã ưu ái dành cho. Thực ra cũng có nhiều người tâm đắc với bài
viết này, nhưng đây là một lĩnh vực rất khó nên tôi còn phải cố gắng nhiều hơn
nữa mới mong đáp ứng được nhu cầu của bệnh nhân. Tôi nhận điều trị cho giáo sư
bằng đông y. Đã niều năm qua, ông không phải đặt stent nào, sức khỏe ông ngày
một tốt lên, ngực không còn đau tức nữa.
11. . Chị Đinh thị T , sinh 1977 quê Hải Hậu, Nam Định là giáo viên
cấp 2 tai Bình Dương. Cách đây 2 năm chị tìm tới phòng mạch của chúng tôi nói
rằng: chị đã đi khám ở một bệnh viện lớn,tại đó các bác sĩ bảo chị có 2 điểm
trên động mạch vành bị hẹp hơn 70% cần phải đặt stent với giá khoảng 140 triệu
và phải chờ hơn một tháng nữa mới làm được vì bệnh nhân còn chờ nhiều quá. Chị
muốn được chữa trị bằng Đông y trong thời gian chờ đợi để tăng sức khoẻ lên,
mặt khác chị cũng chưa vay mượn nổi số tiền lớn trên; nếu sau thời gian đó mà
đỡ thì tôi xin chữa tiếp bằng Đông y, nếu không đỡ thì tôi sẽ cố vay mượn tiền
đi đặt stent. Nhìn khuôn mặt chị da trắng nhợt, môi thâm tái, người trông yếu
ớt, tôi cảm thông và nhận lời giúp chị. Sau khi uống thuốc được một tuần, sức
khỏe của chị khá lên nhiều, ngực chị đã đỡ nhói hơn. Chỉ một tháng sau, ngực
chị đã hết nhói, máu lên não nhiều hơn, đầu cũng giảm đau theo. Uống tiếp một
tháng nữa thì đầu cũng hết đau, da bắt đầu đẹp lên, môi chị ửng hồng. Sau đó
chị uống tiếp 2 tháng nữa, kết quả ngày càng được củng cố, tốt dần lên và chị
đã không phải đi đặt stent nữa. Chị nói: “thế này là may cho tôi quá, vì nhà
cũng không vay được 140 triệu, còn nếu vay được thì cũng chả biết bao giờ mới
trả xong nợ! Mà cả nhà lại còn lo lắng liệu có an toàn không, cảm ơn thầy vô
cùng”.
12. Thiều Quang T, sinh năm 1981. ở 25, ngõ 36 đường Cầu Diễn, quận
Bắc Từ Liêm, Hà Nội. Năm 1996, khi chuẩn bị vào lớp 9 thì cháu đau đầu không
chịu được, học tập sa sút hẳn, mà năm đó chau đang có hướng thi vào trường
chuyên của Đại học tự nhiên. T học toán rất tốt, đã nhiều năm đạt giải học sinh
giỏi Toán thành phố Hà Nội. Nên thấy sức khỏe con như thế bố cháu rất lo. Ông
mời tôi khám cho cháu. Khám xong, tôi nói với ông rằng cháu bị thiếu máu cơ tim
nên thiếu máu lên não gây đau đầu, khi giải những bài Toán khó sẽ càng đau hơn.
Cháu bảo đúng như vậy. Tôi dùng các phép chữa không dùng thuốc đưa máu lên não,
được 5 phút cháu bảo đầu cháu đỡ đau hẳn. Tôi tiếp tục chữa, cháu bảo rằng cháu
thấy lúc đầu chữa thì điểm giữa đầu giảm đau hẳn, sau đó vùng giảm đau cứ lan
rộng dần ra như một chiếc ô trên đầu. Tôi giải thích cho cháu khi bác đưa máu
lên não, máu tưới tới đâu thì sẽ giảm đau ở đó. Là một đứa bé thông minh, nên
khi tôi giải thích, cháu hiểu ngay và bảo: “ Bố ơi! Con tin thầy này sẽ chữa
khỏi đau đầu cho con!”. Bố cháu còn kể cháu bị ngã, đập đầu từ lúc 2 tuổi và bị
đau đàu từ đó. Chỉ có mức độ nhẹ hơn dạo này, và từ đó ngày nào cháu cũng phải
uống một viên thuốc của Bv Bạch Mai cho cháu mới đỡ đau đầu ngủ được. Tôi xem
viên thuốc đó, là viên Gardenal. Tôi cho cháu uống thuốc Đông y, sau một tuần
đỡ đau hẳn thì bỏ viên thuốc Tây kia. Tôi điều trị cho cháu 2 tháng, cháu hết
hẳn đau đầu, da hồng hào, người khỏe lên, học hành tến bộ trông thấy. Cuối năm
đó, cháu thi đõ vào chuyên Toán, Đại học tự nhiên. Rồi sau đó, cháu được học
bổng sang Pháp học, Cháu học luôn Thạc sĩ, thành Tiến sĩ mới về giảng dạy ở Đại
học Bách khoa Hà Nội. Năm ngoái tôi ra Hà Nội vợ chồng cháu tới thăm tôi. Cháu bảo rất cảm ơn thầy,
từ hồi đó tới nay, 11 năm rồi, cháu không bị đau đầu trở lại nữa. 13 Cháu Lê Thị N, sinh năm 1989,nhà
ở đường Đồng Khởi, quận I thành phố Hồ Chí Minh,con chị Lê thị L làm bên kiểm
toán nhà nước khu vực IV. Mấy năm trước,
cháu tới chỗ tôi khám vì đau đầu liên tục, không học được. Cứ mỗi lần gặp bài
tập khó là cháu lại đau đầu, phải nắm tay đập lên đầu một lúc mới đỡ. Mẹ cháu
rất lo, vì cháu đang học lớp 12, đang phải đi học thêm để thi vào đại học.
Lượng bài tập ngày một nhiều, ngày một khó, mà sức khỏe cháu thì ngày một yếu
đi, da xanh tái, môi thâm lại, chị chưa biết tính sao. Có người giới thiệu, chị
cho cháu qua phòng mạch của tôi khám. Kết quả khám cho thấy cháu bị thiếu máu
cơ tim nặng, và dĩ nhiên sẽ thiếu máu lên não. Tôi cho cháu uống thuốc, chỉ một
tuần sau cháu đỡ hẳn đau đầu. Sau một tháng điều trị, chứng đau đầu của cháu
giảm được 80%. Cháu uống tiếp 2 tháng thuốc thì đau đầu hết hẳn, da hồng hào,
sức khỏe tốt lên, kết quả học tập tiến bộ rõ.
Cuối năm đó, cháu đã
thi đỗ vào ĐH Ngoại Thương với kết quả 25 điểm. Mẹ con cháu rất phấn khởi, cảm
ơn tôi nhiều.
14.Chị Bùi thi Liên Hoa,
Sinh năm 1961, quê ở Thọ Quang, Sơn Trà, Đà Nẵng.
Năm
2014, người nhà đưa chị tới phòng mạch của chúng tôi, và cho biết chị đã 2 lần
bị tai biến mạch máu não. Viện ở Đà Nẵng cho biết chị bị hở van động mạch chủ
3/4, van 2 lá 3/4, van 3 lá 2,5/4 và chỉ định thay 2 van tim hở 3/4. Vì có
người quen ở viện tim thành phố Hồ Chí Minh, nên người nhà đưa chị vào đó kiểm
tra thêm. Ngoài kết quả trên, chị còn được phát hiện có 2 điểm hẹp 80% và 90% ở
trên động mạch vành, cần phải đặt stent. Nếu thực hiện 4 sự can thiệp đó, gia
đình phải có ít nhât 300 triệu. Trong khi sức khỏe của chị lại đang quá yếu:
trí nhớ suy giảm, lúc nhớ, lúc quên; mồm méo nhẹ,phát âm không rõ; liệt nửa
người, không tự mặc áo ngực và mặc quần được, da xanh xao, mắt như người thất
thần. Gia đình đang băn khoăn, chưa biết tính sao thì có người khuyên nên tới
chỗ chúng tôi, chỉ uống một loại thuốc mà giải quyết luôn được cả hở, hẹp ở tim
và cả di chứng tai biến. Tôi đã nhận lời điều trị cho chị. Sau một tháng uống
thuốc, sức khỏe của chị đã khá lên nhiều. Sau 6 tháng điều trị, thì mọi chuyện
đều ổn. Không cần đặt stent và thay van tim nữa. Trông chị
hồng hào, mắt có thần, có hồn hơn. Hàng ngày, chị phóng xe máy đi khắp thành
phố...Thật đáng mừng cho chị.
X. Kết luận:
1.Bệnh mạch vành( BMV) là căn bệnh trong đó các
động mạch vành đưa máu về nuôi tim bi tắc, nghẽn làm cho cơ tim bị thiếu máu,
có thể gây nên tình trạng nhồi máu cơ tim hoặc tai biến mạch máu não , nguy
hiểm cho tính mạng của bệnh nhân. Những người bi BMV thì bao giờ cũng bị thiếu
máu toàn thân và các mạch máu khắp cơ thể đều bị tắc, nghẽn, gây nên nhiều bệnh
khác nhau cho cơ thể. Các thuốc Tây y hoặc đặt stent, hoặc mổ bắc cầu ĐMV chỉ
nhằm làm thông suốt ĐMV để tăng cường máu về nuôi tim, còn khi chữa bằng Đông y
thì không chỉ làm thông suốt mạch vành mà còn làm thông suốt tất cả động và
tĩnh mạch trong toàn thân, đồng thời làm tăng lượng máu cho toàn cơ thể- điều
mà Tây y chưa bao giờ làm đước .
2. Bệnh mạch vành là một
bệnh vô cùng nguy hiểm, khám xét ra bệnh rất khó khăn, điều trị rất tốn kém,
khả năng tử vong rất cao. Hiện nay bệnh mạch vành đang gây tử vong lớn nhất tại
nước ta cũng như trên toàn thế giới. Nhưng người dân nước ta hiểu biết về
nó còn rất ít và rât chủ quan, chờ khi bệnh nặng thì mới cuống lên. Tình trạng
đó đúng như câu thành ngữ: “Chưa thấy quan tài thì chưa đổ lệ”, chưa thấy chết chóc thì chưa đau thương, chưa thấy nguy hiểm tới
tính mạng thì chưa cần điều trị .
3. Máu là thức ăn duy nhất của các tế bào. Trong cơ thể nơi
nào thiếu máu thì tế bào nơi đó sẽ bị bỏ đói, dẫn tới chức năng cơ quan đó sẽ
bị suy giảm và phát sinh bệnh tật. Máu thiếu càng nhiều, bệnh tật phát sinh
càng nặng. Qua nghiên cứu và chữa trị, chúng tôi thấy rằng:Các bệnh nặng, khó chữa trong cơ thể đều có
nguyên nhân là thiếu máu và máu nơi đó không được thông suốt, tức là bệnh mạch
vành (kể cả bệnh ung thư). Để chữa các bệnh đó, phải lấy chữa bệnh mạch vành
làm cơ sở, nếu làm tốt điều đó thì không khi nào mà không thành công.
4.Trong Nội Kinh
có câu: “Chữa một bệnh cơ bản mà vạn bệnh tiêu trừ”. Phải chăng “bệnh cơ bản”
mà các tiền nhân đã nhắc tới là “bệnh mạch vành”?. Một lần nữa cũng khẳng định
rằng bài thuốc “Kiện tâm, não, thận hoàn” là một bài thuốc quý, có nhiều tác
dụng trong chăm sóc sức khỏe và sắc đẹp cho con người.Bài thuốc có 4 tác dụng
chính:
- Phòng và
chữa tri bệnh mạch vành và tai biến mạch máu não, bệnh đang gây tử vong hàng
đầu cho nhân loại.
- Phòng và chữa bệnh
ung thư, bệnh đang gây tử vong hàng thứ 2 cho con người.
- Phòng và
chữa các bệnh thường gặp nhưng khó chữa trong cơ thể như: huyết áp cao, thấp,
tiểu đường, gút, trĩ, các bệnh cơ-xương-khớp và eczma…
- Thuốc còn có tác dụng chống lão hóa, uống lâu giúp con người khỏe-
trẻ- đẹp và sống trường thọ hơn.
Sao bạn không dùng bài thuốc này để tăng cường sức khỏe và sắc đẹp
cho chính mình cùng những người mà bạn yêu thương!
Mời bạn nghe lại lời
của bài Thánh ca: “Hãy lắng nghe tiếng gọi từ chính trái tim mình, bởi tất cả
vấn đề đều nảy sinh từ đó…”
V Đ D
Tài Liệu Tham Khảo:
A. Sách Đông y :
1. Lễ Hữu Trác, Hải Thượng Y Tông Tâm Lĩnh (4 tập), Nhà Xuất Bản Y Học, 1972.
2.Lương y Đinh Văn Mông : Toàn tập bài giảng Y, Dược học cổ truyền. Bản
chép tay.
3. GS Hoàng Bảo Châu, Phương thuốc cổ truyền.NXB Y Học 1995.
4.GS Ngô Gia Hy, Thử kết hợp Đông Tây y qua dịch lý và Thận. NXB Đồng Nai,
1999. .
5..GS.TS Hoàng Tuấn, Thận và sự lão hóa. NXB Y Học 2007.
6.GS.TS Hoàng Tuấn, Học thuyết âm dương và phương dược cổ truyền.NXB Văn hóa
Thông tin 2009.
7.GS Trần Văn Kỳ, Đông Tây y điều trị bệnh tim mạch. NXB tổng hợp Đồng Tháp,
1996.
8. GS Nguyễn Khang-DS Phạm Thiệp, Nghiên cứu ứng dụng y học cổ truyền trên thế
giới và trong nước, Nhà Xuất Bản Y Học 2008
9.GS. Vũ Văn Chuyên, DSCKII Trần Trung Nam(biên soạn), Những Bài Thuốc y học cổ
truyền Trung Hoa, Nhà Xuất Bản Y học, 1998
10.Lương y Lê Trần Đức, thầy thuốc ưu tú: Y dược học dân tộc, thực tiễn trị
bệnh. NXB Y Học 1995.
11.Vương Thanh Nhậm, Y lâm cải thác, lương y Nguyễn Văn Nghĩa dịch, NXBTổng Hợp
TPHCM 2004
12. Hoa đà, Thần Y Bí Truyền, Lương Y Nguyễn Văn Nghĩa dịch, NXB Tổng Hợp TPHCM
2004
13. Hoa Đà Trung Tàng Kinh, Lương Y Nguyễn Văn Nghĩa dịch, NXB Lao Động 2009
14. Lý Đông Viên-Tứ đại danh y, Tì vị luận, lương y Nguyễn Văn Nghĩa dịch
NXB Phương Đông 2008
15. Lý Đông Viên-Tứ đại danh y, Lan thất bí tàng, lương y Nguyễn Văn Nghĩa dịch
NXB Phương Đông 2008
16.Đại danh y Trương Cảnh Nhạc, Bát trận tân phương,lương y Trương Quốc Bảo
dịch, NXB Thanh hóa 1993.
17. Tôn Tư Mạc, Thiên Kim Phương, Công Sỹ biên dịch, NXB Phương Đông 2010.
18. Phó Thanh Chủ, Trị nam nữ bá chứng, người dịch Lê Đức Thiếp, Nhà Xuất Bản
TP *********** 19. Tiêu Thụ Đức,10 Điều tâm đắc khi dùng Đông Dược, Tân
sinh-Giang Minh Dịch Nhà Xuất Bản Y Học Hà Nội 2001
20 . Lý Văn Lượng, Thiên gia diệu phương, Võ Văn Bình-Nguyễn Tuấn Khoa-Phạm
Đình Sửu dịch, Viện Thông Tin Thư Viện Y Học Trung Ương Hà Nội 1989
21.Trần Khắc Chính-Hà Thiệu Kỳ-Trần Sĩ Khuê, Những điểm mới trong điều trị nội
khoa đông tây y kết hợp tại Trung Quốc, GS Trần Văn Kỳ dịch, Viện Y Dược Học
Dân Tộc TPHCM 1992
22. Cố Bảo Quần,Thạch Lịch Văn, Vương Trường Tùng: Phương pháp tự nhiên phòng,
trị bệnh động mạch vành.Nguyễn kim Dân biên dịch. NXB Y Học 2001.
23.Tần Bá Vị, Lý Nham, Trương Điền Nhân, Ngụy Chấp Chân :Trung y lâm chứng bị
yếu-Phương pháp chẩn đoán và điều trị 417 bệnh theo Trung y. Lương y Nguyễn
Thiện Quyên, Đào Trọng Cường dịch, NXB Mũi Cà Mau 2001.
24.GS Chung Cán Sinh: Y Dược học Trung Hoa, Ngô Triệu Anh
dịch. NXB Y Tế Nhân dân Bắc Kinh 2004.
25.Những phương thuốc bí truyền trong cung đình nhà Thanh. Hồng Phi biên
dịch.NXB Văn hóa thông tin 2004 26.Viện nghiên cứu Trung Y,Bộ Y Tế nước
Cộng Hòa Nhân dân Trung Hoa :Đông dược học thiết yếu, L.Y Trần văn Quảng dịch.
NXB Mũi Cà Mau 1995.
27. Viện Y Học Trung Y Bắc Kinh, Phương tễ học giảng nghĩa, người dịch Dương
Hữu Nam, PTS Dương Trọng Hiếu, Nhà Xuất Bản Y Học, 1994
28. Viện Y Học Dân Tộc Thượng Hải, 380 bài thuốc đông y hiệu nghiệm, lương y
Ngô Xuân Thiều-Hải Ngọc-Lâm Huy-Nhuận dịch, Nhà Xuất Bản Thanh Hóa
29. Học Viện Trung Y Quảng Châu Trung Quốc, Trung y chuẩn đoán học giảng nghĩa,
Nguyễn Thanh Giản dịch, Viện Y Dược Học Dân Tộc TPHCM xuất bản 1991
30. Bokuso Terashi (Nhật Bản), Thuốc cổ truyền và bệnh của người cao tuổi, Bs
Nguyễn Đức Minh- Dương Kim Thoa dịch, Nhà Xuất Bản Y
Học1996 . B. Sách Tây y : 1. GS Đặng Văn Chung, Bệnh học nội khoa (2 tập), Nhà Xuất Bản Y
Học, 1972
2.GS Phạm Khuê,GS Phạm Gia Khải, GS Phạm Tử Dương,PTS Phạm Thắng, PGS-PTS Trần
Đức Thọ, PGS-PTS Nguyễn Lân Việt, GS Tôn Thât Bach, GS Đặng Hanh Đệ: Bệnh Tim
mạch người già. NXB Y Học 1998. 3. GS-TS-BS Nguyễn Huy Dung, phòng ngừa và
điều trị hiệu quả bệnh tim mạch, Nhà Xuất Bản Phụ Nữ 2008
4. GS-TS Nguyễn Văn Tuấn (Viện Nghiên Cứu Y Khoa Garvan-Úc), Hai mặt sáng tối
của y học hiện đại, Nhà Xuất Bản Trẻ 2005
5.GS-TS Nguyễn Văn Tuấn, Y học dự phong : Nền tảng của y khoa hiện đại, bài
đăng trên ykhoanet.com
6.GS_TS Nguyễn Văn Tuấn,Boris Yeltsin từng được một bác sĩ Mĩ cứu mạng , bài
đăng trên Nguyenvantuan.net
7. GS Vũ Đình Hải-PTS Hà Bá Miễn, Đau thắt ngực và nhồi máu cơ tim, Nhà Xuất
Bản Y học 1996
8.GS Đặng Hanh Đệ, Những điều cần biết khi mổ tim .NXB Y Học 20004.
9.GS Thạch Nguyễn, giám đốc trung tâm Tim Mạch St Mary Hobart, IN, Hoa Kỳ, GS
Dayi Hu (Trung Quốc),GS Moo-Hyun Kim (Han Quôc), GS Cindy Grines (Hoa Kỳ) : Một
số vấn đề cập nhật trong chẩn đoán và điều trị bệnh tim mạch 2007. NXB Y Học
2007
10. Karen J. Carlson-Stephane A. Eisentant- Terra Ziporyn, Đau tim các bệnh tim
ở phụ nữ, Bs Minh Đức dịch , Nhà Xuất Bản Y Học 2002
11.BS Nguyễn Thanh Hiền :Đột quỵ sau thông tim. Tim Mạch Học số ngày 18.5.2010
,Hội Tim mạch tp Hồ Chí Minh.
. 12.GS.BS Nguyễn Ngọc Lanh: Bộ sách sinh lý con người. NXB Khoa học và kỹ
thuật, 1998
13.Tri thức trẻ- số 419 (chuyên san của báo Tiền Phong)
Ngoài ra, đề tài này còn tham khảo rất nhiều bài viêt của các GS,BS trong nước
cũng như nước ngoài đăng tải trên mạng Internet
SĐT: 0982 929658 Địa Chỉ:
-Trước đây: Tập thể 16, Ngô Quyền,Tràng Tiền, Hà Nội.
-Hiện Nay: 23A Đường 2, Khu phố 3(Làng Báo Chí), Phường Thảo Điền, Quận 2, TP Hồ Chí Minh
1 Responses to MẠCH VÀNH BỊ HẸP- SÁT THỦ SỐ MỘT CỦA CON NGƯỜI, CÓ THỂ CHỮA KHỎI HẲN BẰNG ĐÔNG Y